Bản án 93/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 93/2018/HS-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 25 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2018/TLST- HS ngày 09 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn Q, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1983 tại huyện L, tỉnh Bắc Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn M và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị H và 02 con; tiền án: Có 02 tiền án, tại bản án số 31/2010/HSST ngày 19/5/2010 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang đã xử phạt về tội Đánh bạc, hình phạt là 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 23 tháng 12 ngày, bị phạt tiền 7.000.000đồng, ngày 13/7/2018 đã chấp hành xong bản án; tại bản án số 25/2018/HSST ngày 03/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã xử phạt 04 năm tù về tội Buôn lậu, chưa chấp hành bản án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 04/7/2015, bị Công an phường Gia Thụy, quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, hình thức xử phạt là phạt tiền 2.000.000đồng; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/6/2018 cho đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Hữu C, sinh ngày 21 tháng 11 năm 1993 tại huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn S, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh Q và bà Hà Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 04/2010/HSST ngày 22/11/2010, Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã xử phạt Nguyễn Hữu C 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm về tội Trộm cắp tài sản, tháng 01/2011 đã chấp hành xong hình phạt; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/6/2018 cho đến nay. Có mặt.

3. Hà Đức Q, sinh ngày 18 tháng 6 năm 1993 tại huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Đức K và bà Bùi Thị M; có vợ (đã ly hôn) và 01 con; Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa từng bị kết án, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/6/2018 cho đến nay. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987. Trú tại: Thôn C, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt;

2. Chị Lường Thị L, sinh năm 1991; Trú tại: Thôn B, xã N, huyện N, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn Q, Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q là những người sử dụng ma túy. Tối ngày 13/6/2018 Hoàng Văn Q điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 của Hoàng Văn Q đến phòng trọ của Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q ở thành phố L chơi, tại đây Hoàng Văn Q thấy Nguyễn Hữu C có ma túy nên đã hỏi xin của Nguyễn Hữu C về để sử dụng. Nguyễn Hữu C đồng ý cho Hoàng Văn Q 01 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu vàng, gói ma túy này Nguyễn Hữu C mua của một người đàn ông không quen biết tại thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; Hoàng Văn Q không sử dụng mà cất ngay ma túy vào trong túi giả da màu đen của mình. Khoảng 09 giờ ngày 14/6/2018, Hoàng Văn Q nảy sinh ý định mua pháo nổ về sử dụng nên Hoàng Văn Q điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 đi lên khu vực ngã ba thuộc thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn tìm mua pháo nổ, thì gặp và mua của một người đàn ông làm nghề xe ôm Hoàng Văn Q không biết tên, tuổi, địa chỉ, Hoàng Văn Q mua 480 quả pháo loại hình bóng điện có tổng trọng lượng là 18,5kg được đựng trong 40 túi nilon màu đỏ để trong thùng catton, cất giấu trong một bao tải dứa màu xanh, với giá 3.000.000 đồng. Sau khi mua được pháo, Hoàng Văn Q vứt bỏ bao tải dứa, cho thùng cát tông đựng pháo vào trong cốp xe ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 rồi điều khiển xe đi về phòng trọ của Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q chơi.

Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, Hoàng Văn Q điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 chở Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q về Bắc Giang, khi đi đến thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang thì dừng lại ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong, Hoàng Văn Q muốn sử dụng ma túy nên rủ Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q cùng đi mua ma túy về sử dụng. Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q đồng ý nhưng nói không có tiền, mỗi người hỏi vay của Hoàng Văn Q 500.000đồng, Hoàng Văn Q đưa cả số tiền 1.000.000đồng cho Nguyễn Hữu C cầm. Do không biết địa điểm để mua ma túy nên khi đi đến đoạn ngã tư thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Hoàng Văn Q dừng xe lại hỏi một người đàn ông làm nghề xe ôm chỗ mua ma túy thì được người này cho số điện thoại di động nói là của người tên C1. Hoàng Văn Q gọi điện thoại vào số của C1 hỏi mua 1.000.000đồng ma túy tổng hợp, trong đó có 03 viên ma túy “ngựa”, số tiền còn lại mua ma túy đá; đồng thời hỏi mua 02 “phân” ma túy heroine với giá 1.000.000đồng cho Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q; C1 đồng ý và hẹn địa điểm mua bán tại khu vực đường tàu gần ngã tư thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Hoàng Văn Q điều khiển xe chở Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q đến địa điểm đã hẹn với C1 thì thấy một nam thanh niên đi đến gần xe của Hoàng Văn Q. Nguyễn Hữu C xuống xe gặp người nam thanh niên, người này hỏi Nguyễn Hữu C “lấy gì”, Nguyễn Hữu C trả lời “lấy hàng trắng” rồi đưa 1.000.000đồng; người nam thanh niên cầm tiền và đưa cho Nguyễn Hữu C 02 túi nilon bên trong đựng ma túy heroine. Nguyễn Hữu C cầm hai gói ma túy lên xe ô tô, thông báo cho Hà Đức Q biết là đã mua được ma túy và giữ luôn ma túy của Hà Đức Q. Nguyễn Hữu C xé túi ma túy của mình vừa mua được lấy một phần để sử dụng bằng hình thức hít, Nguyễn Hữu C hàn kín miệng túi đựng số ma túy còn lại sau đó nhặt một vỏ túi nilon màu xanh loại túi đựng giấy ăn, cho túi ma túy của mình và túi ma túy của Hà Đức Q vào trong. Trong lúc Nguyễn Hữu C sử dụng ma túy thì Hoàng Văn Q tiếp tục mua của người này 03 viên ma túy tổng hợp dạng viên nén màu đỏ (thường gọi là ngựa) và 01 gói ma túy tổng hợp ở thể rắn màu trắng (thường gọi là đá) được đựng bằng túi nilon với giá 1.000.000đồng. Sau đó, Hoàng Văn Q điều khiển xe ô tô cùng Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q đi về nhà nghỉ H thuộc địa phận thôn Đ, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Đến nơi, Hoàng Văn Q để xe ô tô của mình ở sân nhà nghỉ, thuê phòng nghỉ số 06 rồi cùng Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q đi vào phòng nghỉ. Nguyễn Hữu C để túi nilon màu xanh bên trong có 02 gói ma túy heroine của Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q lên bệ cửa sổ rồi ngồi chơi, Hà Đức Q nằm ngủ, Hoàng Văn Q lấy dụng cụ sử dụng ma túy của mình mang theo để sử dụng ma túy. Hoàng Văn Q lấy 01 viên ma túy “ngựa” để lên giường sử dụng, còn 02 viên Hoàng Văn Q cho vào một trong đoạn ống hút nhựa màu tím rồi hàn kín lại. Riêng túi ma túy “đá”, Hoàng Văn Q đổ một phần vào trong mảnh giấy bạc có kích thước 02cm x 30cm để trên giường và tiếp tục đổ một phần trong số ma túy còn lại vào một đoạn ống hút nhựa màu hồng, hàn kín hai đầu. Hoàng Văn Q cất hai ống hút nhựa đựng ma túy vào túi giả da màu đen, túi nilon đựng ma túy “đá” còn lại Hoàng Văn Q vẫn để trên giường với mục đích sau khi sử dụng hết số ma túy đã chia thì sẽ lấy sử dụng tiếp. Hoàng Văn Q cho viên ma túy “ngựa” đã để sẵn trên giường vào trong mảnh giấy bạc đã có sẵn một phần ma túy “đá”, dùng bật lửa ga đốt phía dưới giấy bạc để sử dụng, khi đang đốt thì bị lực lượng Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang.

Trên giường các đối tượng đang ngồi đã thu giữ: 01 đoạn giấy bạc màu trắng kích thước 02cm x 30cm được uốn cong theo chiều dọc, bên trong có bám chất rắn màu đỏ và trắng; 01 túi nilon màu trắng kích thước 2,5cm x 03cm miệng kẹp dính, bên trong chứa chất ở thể rắn màu trắng; 01 chai nhựa bên trong đựng nước, nắp chai màu xanh được đục 01 lỗ thủng, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu xanh, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu hồng, một đầu gắn với một đoạn giấy bạc cuộn tròn thành dạng ống; 01 coóng thủy tinh bên trong không đựng gì; 01 túi nilon màu trắng kích thước 3,5cm x 03cm miệng kẹp dính bên trong không có gì; 03 bật lửa ga đã qua sử dụng; 06 đoạn ống hút nhựa; 01 dao lam đã qua sử dụng; 01 túi giả da màu đen kích thước 14cm x 09cm bên trong có 02 đoạn ống hút nhựa, một đoạn ống hút nhựa màu hồng dài 4,5cm hàn kín hai đầu bên trong chứa chất ở thể rắn màu trắng, một ống màu tím bên trong có 02 viên nén màu đỏ hình tròn đường kính mỗi viên là 0,5cm, một gói giấy bạc màu vàng kích thước 1,5cm x 01cm bên trong chứa chất cục bột màu trắng; 03 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen.

Tại bệ cửa sổ phòng nghỉ số 06 thu giữ được 01 túi nilon màu xanh loại túi đựng giấy ăn, bên trong có 02 túi nilon màu trắng miệng hàn kín đựng chất cục bột màu trắng, trong đó một túi kích thước 02cm x 1,5cm, một túi kích thước 02cm x 01cm;

Trên người các đối tượng đã thu giữ của Hoàng Văn Q số tiền 4.000.000đồng, Nguyễn Hữu C 1.000.000đồng, Hà Đức Q 770.000đồng.

Kiểm tra trên xe ô tô ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 của Hoàng Văn Q để tại sân nhà nghỉ Hương Lan phát hiện một thùng cát tông bên trong có 40 túi nilon màu đỏ, mỗi túi đựng 12 quả pháo loại hình bóng điện, với tổng cộng 480 quả pháo có trọng lượng là 18,5kg.

Tại bản kết luận giám định số 234/KL-PC 54 ngày 17/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- Mẫu vật của Hoàng Văn Q: Chất ở thể rắn màu trắng, màu đỏ là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng là 0,239gam (đã trừ bì); chất ở thể rắn màu trắng đựng trong túi nilon là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng là 0,183gam (đã trừ bì); chất ở thể rắn đựng trong ống hút nhựa màu hồng là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng là 0,489gam (đã trừ bì); hai viên nén màu đỏ đựng trong ống hút nhựa màu tím là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng là 0,191gam (đã trừ bì);

- Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Hữu C: Chất mục bột màu trắng đựng trong gói giấy bạc màu vàng và chất cục bột màu trắng đựng trong túi nilon màu trắng là chất ma túy heroine có tổng khối lượng là 0,267gam (đã trừ bì);

- Mẫu vật thu giữ của Hà Đức Q: Chất cục bột màu trắng đựng trong túi nilon màu trắng là chất ma túy heroine có khối lượng là 0,233gam (đã trừ bì).

Số ma túy còn lại sau khi giám định thu giữ của Hoàng Văn Q là 0,799 gam Methamphetamine; của Nguyễn Hữu C là 0,230 gam heroine; của Hà Đức Q là 0,198 gam heroine.

Tại bản kết luận giám định số 3544/C54-P2 ngày 28/6/2018 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát kết luận: Các mẫu vật gửi giám định là 12 vật hình bóng điện tròn, đầu mỗi vật có 01 đoạn dây màu xanh bên trong đều có chứa thuốc pháo, khi đốt có gây tiếng nổ.

Ngày 05/9/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định tiêu hủy số lượng pháo còn lại sau khi trích mẫu vật đi giám định.

Tại Cáo trạng số 94/CT-VKS-HS ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o, khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự và tội Tàng trữ hàng cấm theo quy định tại điểm l, khoản 2, Điều 191 của Bộ luật Hình sự; Truy tố bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q cùng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi của mình như Cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

- Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Tàng trữ hàng cấm; Các bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q đều phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

- Về hình phạt: Đối với bị cáo Hoàng Văn Q, đề nghị căn cứ điểm l, khoản 2, Điều 191; điểm o, khoản 2, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50, 55, 56, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy mức hình phạt từ 06 năm đến 07 năm tù; xử phạt về tội Tàng trữ hàng cấm mức hình phạt từ 02 năm đến 03 năm tù; Bị cáo phải chịu hình phạt chung của cả hai tội từ 08 năm đến 10 năm tù; Tổng hợp hình phạt của hai tội trên với hình phạt đã quyết định tại Bản án của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, bị cáo phải chấp hành từ 12 năm đến 14 năm tù, bị cáo được trừ thời gian tạm giam là 32 ngày theo bản án của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng.

Đối với bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q, đề nghị căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Hà Đức Q từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng, đề nghị căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng và 01 xe ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 của Hoàng Văn Q sử dụng vào việc phạm tội; Tịch thu tiêu hủy vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội bao gồm 03 phong bì thư đựng toàn bộ số ma túy thu giữ của các bị cáo sau khi đi giám định; 01 chai nhựa bên trong đựng nước, nắp chai màu xanh được đục 02 lỗ thủng, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu xanh, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu hồng, một đầu gắn với một đoạn giấy bạc cuộn tròn thành dạng ống; 01 ống thủy tinh; 01 túi nilon màu trắng kích thước 3,5cm x 03cm; 03 bật lửa ga đã qua sử dụng; 06 đoạn ống hút nhựa; 01 dao lam đã qua sử dụng; 01 túi giả da màu đen; 01 túi nilon màu xanh đã qua sử dụng; Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám có số Imei: 356959062235657 và số tiền 4.000.000đồng; Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng hồng đã qua sử dụng có số IMEI: 355344084625964 và số tiền 1.000.000đồng; Trả lại cho bị cáo Hà Đức Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám đã qua sử dụng có số IMEI: 359306063774069 và số tiền 770.000đồng.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát; lời nói sau cùng các bị cáo đều xin được chịu mức hình phạt nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay đều đã phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/6/2018, Hoàng Văn Q muốn sử dụng ma túy nên rủ Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q cùng đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo Hoàng Văn Q đã cho Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q vay tiền mỗi người 500.000đồng để mua ma túy, sau đó Hoàng Văn Q gọi điện thoại cho một người đàn ông hỏi mua ma túy cho bản thân và cho Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q, rồi điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q đến địa điểm đã hẹn thuộc địa phận huyện L, tỉnh Bắc Giang để mua ma túy. Tại đây, Nguyễn Hữu C đã mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy heroine với giá 1.000.000đồng, một gói cho Nguyễn Hữu C, một gói cho Hà Đức Q; Hoàng Văn Q cũng mua với một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy ở thể rắn và 03 viên ma túy dạng viên nén với tổng giá trị 1.000.000đồng. Mua ma túy xong, Nguyễn Hữu C sử dụng một phần số ma túy của mình vừa mua rồi để gói ma túy còn lại của mình và gói ma túy của Hà Đức Q vào một túi nilon màu xanh, còn Hà Đức Q sử dụng ma túy đã có sẵn từ trước, rồi cả ba bị cáo đi về nhà nghỉ H thuộc địa phận huyện H, tỉnh Lạng Sơn để nghỉ và sử dụng ma túy. Đến nơi, Nguyễn Hữu C để túi nilon màu xanh chứa 02 gói ma túy ở trên bệ cửa sổ của phòng nghỉ, Hoàng Văn Q lấy số ma túy vừa mua được ra chia thành nhiều phần khác nhau, rồi lấy một phần để sử dụng, số ma túy đã chia Hoàng Văn Q cất vào túi giả da của mình, khi đang Hoàng Văn Q đang sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ. Khối lượng ma túy của Hoàng Văn Q đã mua khi thu giữ đều là ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng là 1,102 gam; Khối lượng ma túy của Nguyễn Hữu C đã mua khi thu giữ là ma túy heroine có tổng khối lượng 0,267 gam; khối lượng ma túy của Hà Đức Q đã mua khi thu giữ là ma túy heroine có khối lượng là 0,233gam. Trước đó, khoảng 09 giờ ngày 14/6/2018, Hoàng Văn Q một mình điều khiển xe ô tô lên thị trấn Đ, huyện H, tỉnh Lạng Sơn để mua 480 quả pháo nổ với trọng lượng là 18,5kg với giá 3.000.000đồng rồi cất vào trong cốp xe ô tô, sau đó điều khiển xe về thành phố Lạng Sơn. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng truy tố bị cáo Hoàng Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o, khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự và tội Tàng trữ hàng cấm theo quy định tại điểm l, khoản 2, Điều 191 của Bộ luật Hình sự; Truy tố bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q cùng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Xét hành vi vào ngày 14/6/2018 các bị cáo đã cùng nhau đi mua ma túy sau đó cất giấu tàng trữ với mục đích để sử dụng, các bị cáo đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đều biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để phục vụ nhu cầu bản thân nên phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi các bị cáo đã thực hiện. Ngoài ra, trong số ma túy mà bị cáo Hoàng Văn Q bị thu giữ khi bị bắt quả tang, còn có một phần ma túy heroine được gói trong giấy bạc màu vàng không phải của bị cáo Hoàng Văn Q, mà số ma túy này là của bị cáo Nguyễn Hữu C đã mua và cho bị cáo Hoàng Văn Q trước đó, do đó bị cáo Nguyễn Hữu C và bị cáo Hoàng Văn Q cùng phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ số ma túy heroine nói trên.

 [4] Về vị trí, vai trò, mức độ phạm tội của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, không có sự bàn bạc tổ chức thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Hoàng Văn Q là người khởi xướng đi mua ma túy, sau đó còn cho bị cáo Nguyễn Hữu C và bị cáo Hà Đức Q vay tiền để mua ma túy, rồi trực tiếp liên lạc với người bán ma túy để hỏi mua và điều khiển xe ô tô thuộc quyền sở hữu của mình chở các bị cáo đi mua ma túy, về nhà nghỉ để sử dụng. Đối với bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q, sau khi được bị cáo Hoàng Văn Q rủ mua ma túy đều tích cực nhất trí, rồi cùng hỏi vay tiền bị cáo Hoàng Văn Q để mua ma túy về sử dụng, riêng bị cáo Nguyễn Hữu C có vai trò tích cực hơn bị cáo Hà Đức Q vì sau khi vay được tiền đã trực tiếp mua ma túy cho bản thân và cho bị cáo Hà Đức Q, rồi trực tiếp cất giấu số ma túy vừa mua được vào túi nilon màu xanh mang về nhà nghỉ. Về tính chất mức độ, nguy hiểm của hành vi của các bị cáo là khác nhau, cụ thể bị cáo Hoàng Văn Q là người bị kết án chưa được xóa tích, đã phạm tội lần thứ hai và được xác định là tái phạm, chưa chấp hành bản án nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, thể hiện việc coi thường pháp luật nên mức độ nguy hiểm của hành vi cao hơn, vì vậy bị cáo Hoàng Văn Q phải chịu định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm o, khoản 2, Điều 249 của Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Hữu C đã có một lần bị xét xử nhưng án tích đã được xóa nên mức độ nguy hiểm hành vi thấp hơn. Xét thấy, bị cáo Hoàng Văn Q có vai trò quan trọng thứ nhất, sau đó đến bị cáo Nguyễn Hữu C, vai trò sau là bị cáo Hà Đức Q.

 [5] Đối với bị cáo Hoàng Văn Q, ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nói trên bị cáo Hoàng Văn Q còn có hành vi tàng trữ 18,5kg pháo nổ trong cốp xe ô tô, gắn biển xe không đúng đăng ký xe nhằm gây khó khăn cho cơ quan chức năng phát hiện vụ việc. Hành vi tàng trữ hàng cấm của bị cáo Hoàng Văn Q đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm lưu thông, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Bị cáo nhận thức hành vi tàng trữ pháo nổ là vi phạm pháp luật, cũng như tác hại của pháo nổ đối với bản thân và xã hội, nhưng do coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện để sử dụng đốt trong dịp lễ, tết, do đó bị cáo Hoàng Văn Q còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ hàng cấm. Do ở lần phạm tội trước, bị cáo Hoàng Văn Q đã được xác định là tái phạm nên lần tàng trữ hàng cấm này, bị cáo Hoàng Văn Q phải chịu tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm quy định tại l, khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

 [6] Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét nhân thân các bị cáo, đều là đối tượng sử dụng ma túy, bị cáo Hoàng Văn Q đã có hai tiền án, trong đó ở lần phạm tội thứ hai bị cáo đã bị xử phạt 04 năm tù, nhưng bị cáo chưa chấp hành thì lại phạm tội mới và có một lần bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng đến nay đã được xóa; Bị cáo Nguyễn Hữu C tuy không có tiền án, tiền sự nhưng năm 2010 đã từng có một án tích về tội Trộm cắp tài sản nay đã được xóa; bị cáo Hà Đức Q chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng sử dụng ma túy nên các bị cáo không được coi là có nhân thân tốt.

 [7] Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ, vai trò hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người

công dân có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung. Riêng bị cáo Hoàng Văn Q, bản án trước chưa chấp hành nay phạm tội mới, sẽ được tổng hợp hình phạt của bản án trước để quyết định hình phạt chung.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp ổn định, bị cáo Hoàng Văn Q thuộc gia đình hộ cận nghèo do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

 [9] Về việc xử lý vật chứng: Các vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy bao gồm 03 phong bì thư đựng toàn bộ số ma túy thu giữ của các bị cáo sau khi đi giám định; 01 chai nhựa bên trong đựng nước, nắp chai màu xanh được đục 02 lỗ thủng, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu xanh, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu hồng, một đầu gắn với một đoạn giấy bạc cuộn tròn thành dạng ống; 01 coóng thủy tinh; 01 túi nilon màu trắng kích thước 3,5cm x 03cm; 03 bật lửa ga đã qua sử dụng; 06 đoạn ống hút nhựa; 01 dao lam đã qua sử dụng; 01 túi giả da màu đen; 01 túi nilon màu xanh đã qua sử dụng; Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng và 01 xe ô tô biển kiểm soát 29Z-4087 là vật chứng bị cáo Hoàng Văn Q đã sử dụng để liên lạc, tàng trữ ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; điện thoại và số tiền đã thu giữ của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho các bị cáo. Toàn bộ pháo nổ Cơ quan điều tra đã được tiêu hủy là đúng quy định của pháp luật.

 [10] Đối với hành vi tàng trữ trái phép pháo nổ của bị cáo Hoàng Văn Q, bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Đức Q không biết nên không có vai trò đồng phạm với hành vi này.

 [11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo, người bán pháo cho bị cáo Hoàng Văn Q do không biết họ, tên, địa chỉ nên không có cơ sở điều tra; đối với chị Lường Thị L là người chủ quản lý nhà nghỉ không biết các bị cáo sử dụng, tàng trữ ma túy tại nhà nghỉ của mình, chị cũng không có thiệt hại về tài sản, không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [12] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm o, khoản 2, điều 249; điểm l, khoản 2, Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50; 58; 55; khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ hàng cấm.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 06 (sáu) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; 02 (hai) năm tù về tội Tàng trữ hàng cấm. Tổng cộng hình phạt của hai tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ hàng cấm là 08 (tám) năm tù.

Tổng hợp hình phạt của hai tội trên với hình phạt quyết định tại bản án số

25/2018/HSST ngày 03/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, hình phạt chung bị cáo Hoàng Văn Q phải chấp hành hình phạt là 12 (mười hai) năm tù. Được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2017 đến 20/10/2017 là 32 (ba mươi hai) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 14/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c, khoản 1, điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50; 58 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 14/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Căn cứ điểm c, khoản 1, điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50; 58 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hà Đức Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hà Đức Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 14/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) xe ô tô gắn biển kiểm soát 29Z-4087 nhãn hiệu TOYOTA CAMRY màu trắng, số khung 88365, số máy 0088895 đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu nokia vỏ màu đen đã qua sử dụng có số IMEI 1: 351852/07/083742/1, số IMEI 2: 351852/07/083743/9.

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau khi đi giám định bao gồm 0,799 gam Methamphetamine, 0,428 gam heroine được đựng trong 03 (ba) phong bì thư dán kín, được niêm phong; 01 (một) chai nhựa bên trong đựng nước, nắp chai màu xanh được đục 02 lỗ thủng, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu xanh, một lỗ gắn với ống hút nhựa màu hồng, một đầu gắn với một đoạn giấy bạc cuộn tròn thành dạng ống; 01 (một) coóng thủy tinh bên trong không đựng gì; 01 (một) túi nilon màu trắng kích thước 3,5cm x 03cm miệng kẹp kính bên trong không có gì; 01 (một) túi nilon màu xanh đã qua sử dụng; 03 (ba) bật lửa ga đã qua sử dụng; 06 (sáu) đoạn ống hút nhựa; 01 (một) dao lam đã qua sử dụng; 01 (một) túi giả da màu đen kích thước 14cm x 9cm.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn Q số tiền 4.000.000đồng (bốn triệu đồng) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xám đã qua sử dụng có số Imei: 356959062235657;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu C số tiền 1.000.000đồng (một triệu đồng) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng hồng đã qua sử dụng có số IMEI: 355344084625964;

- Trả lại cho bị cáo Hà Đức Q số tiền 770.000đồng (bảy trăm bảy mươi nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xám đã qua sử dụng có số IMEI: 359306063774069.

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/10/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và ủy nhiệm chi ngày 15/10/2018).

5. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

959
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 93/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:93/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;