Bản án 93/2018/HSST ngày 16/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 93/2018/HSST NGÀY 16/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 85/2018/HSST ngày

07 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Danh Văn M, sinh năm 1999, tên ngọi khác: Danh Hoàng M. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khóm K, phường N, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Chỗ ở: Khóm 1, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Khơ me; con ông Lâm Đ (chết), con bà Danh Thị P; tiền án: Không, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/6/2018 đến nay. (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Bé N – Trợ giúp viên pháp lý – thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau. (có mặt).

Địa chỉ: Khóm 9, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau,

Người bị hại: Lê Thanh T, sinh ngày 17/7/2004. (có mặt).

Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Người giám hộ cho bị hại: Chị Phạm Thị Ngọc Y, sinh năm 1995. (có mặt). Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Luật sư Võ Thanh

T- Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau. (có mặt).

Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau,

Người làm chứng:

1/ Dư Trọng N, sinh năm 2002. (vắng mặt). Địa chỉ: Khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau,

2/ Nguyễn Châu T, sinh năm 1999. (vắng mặt). Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau,

3/ Ngô Quốc Đ, sinh năm 2000. (vắng mặt). Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 01.6.2018, Danh Văn M đến nhà của L ở khóm 3, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau chơi và tổ chức nhậu có Đ, Đ, T, L, sau khi nhậu khoảng 20 phút thì T và Đ lấy xe chạy đi, không biết đi đâu, khoảng 30 phút sau T và Đ về nói là bị một nhóm thanh niên đánh nên bỏ xe ở C2 và nhờ M đi lấy xe dùm, M đồng ý chở T và Đ cùng đi. Trước khi đi M ra phía sau nhà của L lấy 01 cây dao tự chế mũi bằng, cán bằng sắt dài 45cm cất giấu trong người rồi chở T và Đ đến trước cửa Sacombank, do có nhà bị cháy nên M chạy xe chậm lại, lúc này có nhóm thanh niên khoảng 10 người kéo T và Đ xuống đánh nên M đậu xe lại, thấy T và Đ bị đánh nên M lấy dao cầm tay phải chém Lê Thanh T 01 nhát trúng vào cổ tay trái, Tỷ bỏ chạy, M quay ra chém tiếp tục 01 nhát trúng vào bàn tay phải của Dư Trọng N và N cũng bỏ chạy, sau khi chém T và N, thì M bỏ trốn đi biển đến ngày 18.6.2018 thì bị Công an phát hiện.

Sau khi bị chém T và N được gia đình đưa đi điều trị tại Bệnh viện tỉnh Cà Mau đến ngày 6.6.2018 thì ra viện và có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với M. Lê Thanh T yêu cầu bồi thường tiền thuốc và các khoản là 33.257.900 đồng. Đối với Dư Trọng N đến ngày 13.8.2018 đã nhận 5.000.000 đồng của gia đình bị cáo M và có đơn xin rút lại yêu cầu xử lý hình sự đối với M và không yêu cầu về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo M. Ngoài ra, gia đình bị cáo M đã nộp khắc phục hậu quả cho T là 5.000.000 đồng hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Cà Mau đang quản lý.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 178/TgT ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Trung tâm pháp y sở y tế tỉnh Cà Mau kết luận thương tật của Dư Trọng N: 01 vết sẹo mặt nu đốt gần giữa ngón tay II bàn tay phải, kích thước 2,5cm x 0,2cm tỷ lệ 01%; 01 vết sẹo mặt nu đốt gần ngón tay III bàn tay phải, kích thước 2cm x 0,2cm tỷ lệ 01%; 01 vết sẹo mặt nu đốt gần ngón tay IV bàn tay phải, kích thước 2cm x 0,2cm tỷ lệ 01%; 01 vết sẹo mặt nu đốt gần ngón tay V bàn tay phải, kích thước 1,4cm x 0,1cm tỷ lệ 01%; Đứt gân duỗi ngón II- III- IV-V bàn tay phải, hạn chế vận động các ngón II- III- IV-V bàn tay phải mức độ ít. Tỷ lệ 3%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 7%.

Tại kết luận giám định pháp y số 177/TgT ngày 20.6.2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Cà Mau kết luận thương tích Lê Thanh T: 01 vết sẹo mặt sau cổ tay trái kích thước 8cm x 0,2cm, tỷ lệ 08%; Đứt gân duỗi ngón II- III- IV -V bàn tay trái, hạn chế vận động cổ tay và các ngón tay mức độ nhiều tỷ lệ 08%; Tổn thương nhánh thần kinh giữa bên trái tỷ lệ 11%; Tổn thương nhánh thần kinh trụ bên trái tỷ lệ 11%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 33%.

Vật chứng: Không thu giữa được, do bị cáo ném xuống Sông Đốc.

Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, đồng ý bồi thường các khoản cho Tỷ là 33.257.900 đồng và yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo. Từ những mội dung trên cáo trạng của Viện kiểm sát huyện T truy tố bị cáo Danh văn M về tội “cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị hại T và người giám hộ cho người bị hại yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự là là 33.257.900 đồng, yêu cầu giảm hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm trên và áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51 và điểm i Điều 52 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt đối với bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường các khoản cho bị hại T là 33.257.900 đồng, nhưng trừ đi số tiền gia đình bị cáo đã nộp trước là 5.000.000 đồng.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, về hình phạt yêu cầu hội đồng xét xử xem xét thêm những tình tiết giảm cho bị cáo như ản thân bị cáo không biết chữ, bị cáo là người dân tộc, gia đình bị cáo là hộ nghèo nên việc am hiểu pháp luật còn hạn chế, hơn nữa do người bị hại đánh bạn của bị cáo trước, do đó bị cáo mới dùng dao chém bị hại, nên bị hại cũng có lỗi trong việc này. Từ những tình tiết giảm nhẹ trên nên yêu cầu hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt dưới khung cho bị cáo.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại tham gia tranh luận: Thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và trách nhiệm bồi thường về dân sự, thống nhất theo yêu cầu của bị hại và người giám hộ cho bị hại, yêu cầu Hội đồng xét xử gảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo đã thừa nhận vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 01.06.2018, tại Khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau. Do N và T đánh Đ và T bạn của M nên M dùng dao là loại hung khí nguy hiểm chém T và N gây thương tích.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 177/TgT ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Trung tâm pháp y sở y tế tỉnh Cà Mau kết luận thương tật của Lê Thanh T: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 33%.

Tại kết luận giám định pháp y số 178/TgT ngày 20.6.2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Cà Mau kết luận thương tích của Dư Trọng N. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 7%. Nhưng N đã rút lại yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo.

Việc phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, trước, trong sau khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm do hành vi của các bị cáo gây ra.

Từ nội dung trên xét thấy, cáo trạng số 91 ngày 07.9.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là có căn cứ và đủ yếu tố cấu thành tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo thực hiện việc phạm tội nghiêm trọng, gây mất trật tự trị an ở địa phương, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, bị cáo cũng biết được tính mạng, sức khỏe của con người luôn được pháp luật bảo vệ, nhưng do bản tính hung hăng xem thường pháp luật, nên bị cáo đã dùng dao là loại hung khí nguy hiểm chém vào người của bị hại Lê Thanh T, tỷ lệ thương tật là 33% , đây là tình tiết định khung.

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình nộp một khoản tiền để khắc phục bồi thường tiền thuốc và các khoản chi phí khác cho người bị hại, hơn nữa bị hại cũng có lỗi trong vụ án này vì bị hại đã đánh T và Đ là bạn của M trước, bị cáo là người dân tộc khơ me, gia đình của bị cáo là hộ nghèo, bị cáo không biết chữ việc ham hiểu pháp luật còn hạn chế. Tại phiên tòa người bị hại và người giám hộ cho người bị hại yêu cầu Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo thực hiện việc phạm tội đối với Lê Thanh T, sinh ngày 17.7.2004, ngày phạm tội là ngày 01.6.2018, như vậy thời điểm này bị hại T chưa đủ 16 tuổi, căn cứ vào điểm i Điều 52 Bộ luật hình sự, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình phạt đối với bị cáo.

Từ những phân tích, đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự . Hội đồng xét xử xét thấy các điều luật của Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên chấp nhận. Đối với khung hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị từ 05 năm đến 06 năm tù là tương đối nghiêm khắc, do bị cáo có nhiều tình tiết quy định tại khoản 1 và 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để áp dụng dưới khung đối với bị cáo cũng đủ giáo dục răn đe bị cáo trở thành một công dân tốt cho gia đình và xã hội.

Đối với Dư Trọng N thương tích là 7%, gia đình bị cáo đã bồi thường cho Nguyễn 5.000.000 đồng, N đã có đơn rút lại yêu cầu xử lý hình sự nên Viện kiểm sát không truy tố Danh Văn M là có căn cứ.

[5] Xét về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người bị hại và người giám hộ cho bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền là 33.257.900 đồng, tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường tòan bộ số tiền nói trên. Xét thấy việc tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại không trái với quy định của pháp luật, nên công nhận là phù hợp với Điều 584, 586, 590 Bộ luật dân sự.

[6] Về án phí sơ thẩm hình sự: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Danh Văn M (Danh Hoàng M) phạm tội “cố ý gây thương tích”

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i Điều 52, Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Danh Văn M (Danh Hoàng M) 03 (ba) năm, thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 22.6.2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 586, 590 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường các khoản chi phí điều trị, tiền ăn, mất thu nhập, tổn thất về tinh thần, tổng là 33.257.900 đồng cho Lê Thanh T, được trừ đi số tiền gia đình bị cáo đã nộp trước là 5.000.000 đồng, phần còn lại bị cáo phải nộp tiếp. Số tiền 5.000.000 đồng (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Cà Mau đang quản lý).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Về án phí sơ thẩm hình sự buộc bị cáo M phải nộp 200.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bị cáo phải nộp là 1.412.895 đồng.

4. Bị cáo, người bị hại, người giám hộ cho bị hại có quyền kháng cáo trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

349
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 93/2018/HSST ngày 16/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:93/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;