Bản án 92/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 92/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Bá Trung Th, sinh năm 1998 tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khóm D T, thị trấn L B, huyện H H, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Buôn Bán; Con ông Lê Bá H, sinh năm 1959 và bà Phan Thị H, sinh năm 1962; Hiện cùng trú tại Khóm D T, thị trấn L B, huyện H H, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 06 anh, chị, em, bị cáo là con út; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Thanh H, tên gọi khác: Bờm, sinh năm 1987 tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố 4, Phường N, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Thợ sửa điện thoại; Con ông Lê Xuân C, sinh năm 1944 và bà Mai Thị Phương A, sinh năm 1957; Hiện cùng trú tại Khu phố 4, Phường N, thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 04 anh, em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2005/HSST ngày 23/5/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt Lê Thanh H 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Hà Văn D, tên gọi khác: Vầm; Sinh năm 1994 tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố 7, Phường B, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Hà Văn Ng, sinh năm 1963 và bà Trần Thị H, sinh năm 1969. Hiện cùng trú tại Khu phố 7, Phường B, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Dương Ph sinh năm: 1994; địa chỉ: Thôn T L, xã T G, huyện Tr P, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Nguyễn Hoàng H, sinh năm: 1993; địa chỉ: Khu phố 3, Phường H, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Anh Hồ Đức T, sinh năm: 2000; địa chỉ: Khu phố 3, phường Đ L, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 21/5/2019, Lê Bá Trung Th gọi điện thoại rủ Lê Thanh H cùng sử dụng ma túy thì Hải đồng ý và hẹn Th đến phòng số 05, nhà nghỉ Hưng Thành (ở Khu phố 1, phường Đ L, thành phố Đ H, nơi Hải thuê trọ). Thu đến khu vực ngã tư đường Hùng Vương giao đường Lý Thường Kiệt tìm gặp một nam thanh niên tên Anh (không rõ lai lịch) mua được 07 viên ma túy với giá 700.000 đồng. Sau khi có ma túy, Th cất giấu tại túi quần rồi đến phòng số 5, nhà nghỉ Hưng Thành. Tại đây, Th nói cho H biết đã mua được 07 viên ma túy rồi lấy ra 03 viên để sử dụng. Sau khi cùng H sử dụng hết 03 viên, Th tán nhỏ 04 viên còn lại rồi cất giấu trong 01 gói nilon màu xanh để trên giường đặt trong phòng để sử dụng sau.

Khoảng 08 giờ 15 phút cùng ngày, trong khi H và Th đang ở phòng số 05 nhà nghỉ Hưng Th thì Hà Văn D đến chơi nên H, Th rủ D cùng sử dụng ma túy, D đồng ý. Cả ba lấy số ma túy được tán nhỏ nói trên ra sử dụng, khi đang sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, bắt quả tang, thu giữ số ma túy trên, đồng thời thu giữ tại vị trí dưới chân giường 50 viên ma túy được đựng trong 01 bao ni lon màu trắng.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, Hà Văn D đi đến khu vực dưới chân Cầu Vượt (thuộc Khu phố 9, Phường M, thành phố Đ H gặp một nam thanh niên tên Đức mua được 10 viên ma túy với giá 750.000 đồng, Dương sử dụng hết 05 viên. Khoảng 09 giờ cùng ngày, tại nhà nghỉ Thảo Nguyên (ở Khu phố 8, Phường H, thành phố Đ H), D bán cho Nguyễn Dương Ph và Nguyễn Hoàng H 05 viên ma túy với giá 500.000 đồng (nhưng cho nợ tiền).

Khoảng 00 giờ ngày 21/5/2019, Hà Văn D lại đi đến khu vực dưới chân Cầu Vượt gặp nam thanh niên tên Đức (không rõ lai lịch) lần trước và mua được 100 viên ma túy với giá 5.500.000 đồng. Khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày, tại khu vực gần trường Trung cấp y tế tỉnh Quảng Trị (thuộc Khu phố 3, phường Đ L, thành phố Đ H), Dương bán cho Hồ Đức T (trú tại Khu phố 3, phường Đ L, thành phố Đ H) 50 viên ma túy với giá 3.000.000 đồng (nhưng cho T nợ tiền), số ma túy còn lại D cất giấu trong túi quần mình đang mặc. Đến khoảng 08 giờ 15 phút, D đến phòng số 05 nhà nghỉ Hưng Thành chơi thì Lê Thanh H và Lê Bá Trung T rủ sử dụng ma túy. Trong khi Th, H, D đang sử dụng ma túy thì Công An Đông Hà kiểm tra hành chính. Thấy vậy, D lấy gói ma túy ném xuống giường. Lê Thanh H và Lê Bá Trung T không biết D mang theo số ma túy trên.

Theo Kết luận giám định số 451/KLGĐ ngày 23/05/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị:

- Chất rắn màu hồng dạng (cục + hạt + bột) thu giữ được khi Lê Bá Trung Th, Lê Thanh H và Hà Văn D đang sử dụng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,8073g.

- 50 viên nén màu hồng thu giữ của Hà Văn D là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 4,3890g.

Theo kết luận giám định số 410/KLGĐ ngày 10/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị thì: 04 viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Dương P và Nguyễn Hoàng H khi bắt quả tang Hiếu và P đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà nghỉ Thảo Nguyên là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,3953g.

Tại bản cáo trạng số 86/QĐ/CT-VKS ngày 12/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã truy tố các bị cáo Lê Bá Trung T, Lê Thanh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Hà Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Bá Trung T từ 19 đến 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thanh H từ 18 đến 19 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt Hà Văn D từ 15 đến 17 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s, r khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự, xử phạt Hà Văn D từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo Lê Bá Trung Th 01 điện thoại di động hiệu Master màu xanh, có số thuê bao 0969.893.757 và số tiền 1.000.000 đồng; Trả lại cho bị cáo Lê Thanh H 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen, có số thuê bao 0916.780.850; Trả lại cho Hà Văn D số tiền 1.800.000 đồng.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0914624090 và 0937255646, Imeil: 868931030454182, Imeil: 868931030754185.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu PS3A 071369 và 01 bao nilon màu trắng có đóng dấu của “Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị”.

Các bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Lê Bá Trung Th: Bị cáo không có ý kiến gì.

Bị cáo Lê Thanh H: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai trái, nên xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo Hà Văn D: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, bị cáo xin Hội đồng xem xét cho bị cáo mức án nhẹ để bị cáo sớm được trở về.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã thể hiện đủ cơ sở kết luận: Ngày 21/5/2019, Lê Bá Trung Th, Lê Thanh H và Hà Văn D thực hiện hành vi cất giữ 0,8073g ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điều luật có khung hình phạt từ một năm đến năm năm.

Ngày 08/5/2019, Hà Văn D bán cho Nguyễn Dương P và Nguyễn Hoàng H 05 viên ma túy, P, H sử dụng 01 viên còn lại 04 viên được giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,3953g.

Ngày 21/5/2019, Hà Văn D bán cho Hồ Đức Th 50 viên ma túy (không thu giữ được) và cất giấu 50 viên nén màu hồng ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 4,3890g mục đích bán lại cho người khác kiếm lời. Hành vi của Hà Văn D đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, điều luật có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, là nguyên nhân gây nên các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an địa phương và tâm lý hoang mang lo sợ trong nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc, tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, các bị cáo Th, H, D đều thành khẩn khai báo nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” quy định tại Điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Lê Thanh H có bố được tặng huân chương kháng chiến hạng Nhất nên bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Hà Văn D quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo về hành vi mua bán ma túy và tự thú về hành vi mua bán ma túy trước đó nên đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy” bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” và “Người phạm tội tự thú” tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét nhân thân, vai trò và mức độ tham gia tội phạm của từng bị cáo thấy rằng: Đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Lê Bá Trung Th là người giữ vai trò khởi xướng, rủ rê Lê Thanh H sử dụng ma túy, Th trực tiếp mua và chi trả tiền ma túy nên phải chịu mức hình phạt cao nhất. Bị cáo Lê Thanh H có nhân thân xấu, năm 2005 bị cáo bị xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, trong việc thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chuẩn bị phòng, công cụ sử dụng ma túy, xét vai trò tham gia tội phạm thấp hơn sơ với Th nên bị cáo chịu mức hình phạt thấp hơn. Đối với Hà Văn D là người đến sau, được Th và H rủ sử dụng ma túy bị cáo đồng ý, bị cáo tham gia vai trò đồng phạm thấp hơn nên chịu mức hình phạt thấp hơn so với các bị cáo khác.

Hà Văn D nhiều lần bán ma túy cho người khác, trong đó Hồ Đức Th thừa nhận mua của D 50 viên ma túy. Ngày 21/5/2019, bị cáo cất giấu ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 4,3890g mục đích bán lại cho người khác kiếm lời. Vì vậy đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy”cần xử phạt bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt.

Cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và giáo dục. Ban hành Quyết định tạm giam đối với mỗi bị cáo thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

[5] Về vật chứng và tài sản tạm giữ:

- 01 bì niêm phong ký hiệu PS3A 071369 chứa ma túy và bao gói sau giám định, 01 bao nilon màu trắng có đóng dấu của “Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị” không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy. - 01 điện thoại di động hiệu Master màu xanh, có số thuê bao 0969.893.757 và số tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.000.000 đồng của Lê Bá Trung Th; 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen, có số thuê bao 0916.780.850 của Lê Thanh H; Số tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1.800.000 đồng của Hà Văn D không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho Th, H và D nhưng tạm giữ của mỗi bị cáo số tiền 200.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

- 01 điện thoại di động màu đen, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0914624090 và 0937255646, Imeil: 868931030454182, Imeil: 868931030754185 của Hà Văn D bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch nộp ngân sách Nhà nước Đối với Nguyễn Dương P và Nguyễn Hoàng H là người mua ma túy của Hà Văn D, đã bị Cơ quan điều tra - Công an thành phố Đông Hà khời tố vụ án, khởi tố bị can và đang điều tra trong một vụ án khác.

Đối với Hồ Đức Th (là người mua ma túy của Hà Văn D để sử dụng), Cơ quan điều tra đã quyết định xử phạt hành chính.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Bá Trung Th, Lê Thanh H, tên gọi khác: Bờm phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Hà Văn D, tên gọi khác: Vầm phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Bá Trung Th 19 (Mười chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/5/2019.

- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Thanh H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/5/2019.

- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Hà Văn D 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào Điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Hà Văn D 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của hai bản án buộc Hà Văn D phải chấp hành hình phạt chung là 08 (Tám) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/5/2019.

3. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Trả lại cho bị cáo Lê Bá Trung Th 01 điện thoại di động hiệu Master màu xanh, có số thuê bao 0969.893.757 và số tiền 1.000.000 đồng; Trả lại cho bị cáo Lê Thanh H 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen, có số thuê bao 0916.780.850; Trả lại cho Hà Văn D số tiền 1.800.000 đồng. Tạm giữ điện thoại di động hiệu Sony màu đen của Lê Thanh H và các bị cáo Lê Bá Trung Th, Hà Văn D mỗi bị cáo tiền 200.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, màn hình cảm ứng, có số thuê bao 0914624090 và 0937255646, Imeil: 868931030454182, Imeil: 868931030754185.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu PS3A 071369 và 01 bao nilon màu trắng có đóng dấu của “Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị”.

Vật chứng và tài sản tạm giữ hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

4. Về án phí: Các bị cáo Lê Bá Trung Th, Lê Thanh H và Hà Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 92/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:92/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;