TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 92/2018/HS-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phốHồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thanh S (tên thường gọi là US); Sinh ngày: 24/01/1984; Tại: Tỉnh Tiền Giang; Thường trú: 119B/1 đường PVK, Phường B, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 963/1B (phòng trọ A2), đường LG, Phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C (chết) và bà: Lê Thị B; Có vợ: Là bà Ngô Thị Ngọc G và con: Có01 người con, sinh năm 2012; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 27/6/2018. (có mặt)
2. Chiêm Thành L; Sinh ngày: 11/7/1988; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 2.07 chung cư 242-244 đường PVK, Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 639/15 đường HL2, khu phố 7, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Phụ buôn bán; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Chiêm L và bà: Nguyễn Thị Kim L; Có vợ: Là bà Nguyễn Thị Hồng T và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 27/6/2018. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Văn C; Sinh năm: 1987; Trú tại: 3E2 ấp 4, thị trấn TT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
2. Ông Trần Văn H; Sinh năm: 1988; Trú tại: 714A6 ấp 2, xã TK, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
3. Bà Châu Ghệt H; Sinh năm: 1964; Thường trú: 995/118/13 đường HB, Phường L, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 751/386/15 đường HB, Phường F, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
4. Bà Trịnh Thu N; Sinh năm: 1991; Thường trú: Ấp CLA, xã VC, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 27/6/2018, tại đầu hẻm 958 đường LG, Phường H, Quận F, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 bắt quả tang Nguyễn Thanh S đang bán cho Nguyễn Văn C 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng và đã thu giữ tại chỗ bịch ma túy này. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của S 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia và số tiền 300.000 đồng. Sau đó đã giao S, C và Trần Văn H (người đi chung với C) cùng vật chứng nêu trên cho Công an Phường H, Quận F giải quyết.
Tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Thanh S tại phòng trọ A2, nhà số 963/1B, đường LG, Phường H, Quận F, Công an thu giữ 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá tự chế (gồm 01 bình nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa); 02 cây kéo (01 cây có cán nhựa màu vàng, 01 cây có cán bằng kim loại); 01 cây nhíp bằng kim loại màu trắng; 01 hộp quẹt gas màu vàng; 02 ống hút nhựa màu trắng được cắt xéo; 06 bịch nylon có rãnh âm dương (02 bịch có rãnh màu xanh, 04 bịch có rãnh màu đỏ).
Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Nguyễn Thanh S khai: Khoảng 19 giờ ngày 27/6/2018, sau khi nhận được điện thoại của Nguyễn Văn C hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng, Sang liền gọi điện thoại cho Ong Đức D hỏi mua ma túy, do bận nên D hẹn 22 giờ cùng ngày mới giao ma túy cho Sang, nên S gọi điện thoại cho Chiêm Thành L hỏi mua bịch ma túy giá 200.000 đồng, L đồng ý. Đến 20 giờ cùng ngày, S đến điểm hẹn tại đầu hẻm 963 đường LG, Phường H, Quận F gặp L nhận bịch ma túy. Sau đó, S đem bịch ma túy về phòng trọ lấy ra một ít sử dụng, số còn lại S đem đến đầu hẻm 958 đường LG, Phường 8, Quận 6 bán cho C. Sau khi giao bịch ma túy cho C và nhận 300.000 đồng từ C thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.
Qua điều tra, Nguyễn Văn C khai đã nhiều lần mua ma túy của Nguyễn Thanh S (mỗi lần mua là 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng, nhưng không nhớ cụ thể ngày nào). Ngày 27/6/2018, C và H rủ nhau mỗi người hùn 150.000 đồng để mua ma túy sử dụng. Khoảng 19 giờ cùng ngày, sau khi C gọi điện thoại cho S hỏi mua bịch ma túy đá giá 300.000 đồng, C và H đi xe ôm đến điểm hẹn tại đầu hẻm 958 đường LG, Phường H, Quận F gặp S để nhận bịch ma túy thì bị bắt giữ.
Từ lời khai của Nguyễn Thanh S về nguồn gốc ma túy, khoảng 22 giờ 30 phút ngày 27/6/2018, Công an Quận 6 phát hiện Chiêm Thành L đang dừng xe gắn máy biển số 51P3-7764 tại đầu hẻm 963 đường LG nên bắt giữ. Qua kiểm tra đã thu giữ trên tay trái của L 01 bịch nylon bên trong có chứa tinh thể không màu. Ngoài ra, Công an còn thu giữ trong cốp xe của L 01 hộp bằng kim loại hình chữ nhật, bên ngoài có ghi chữ «DOUBLEMINT», bên trong có 12 bịch ma túy đá; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung và số tiền 400.000 đồng.
Tiến hành khám xét nơi ở của Chiêm Thành L tại nhà số 639/15 đường HL2, khu phố 7, phường BTĐ, quận BT, Công an thu giữ 01 cây kéo bằng kim loại màu đen, 01 bình nhựa bên ngoài có ghi chữ C2, 02 ống thủy tinh; 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng, 01 ống hút nhựa màu trắng được cắt xéo một đầu, 01 bật lửa màu xanh.
Đến 22 giờ 50 ngày 27/6/2018, Công an Quận 6 phát hiện Ong Đức D đang dừng xe gắn máy biển số 83P1-109.93 tại bãi đất trống kế bên nhà số 001 lô B1, chung cư LG, Phường K, Quận F nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong hộc của bửng xe phía bên trái 01 bịch ma túy đá, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mobistar và số tiền 150.000 đồng, nên đã giao D cùng vật chứng nêu trên cho Công an Phường K, Quận F giải quyết.
Tại Cơ quan điều tra, Chiêm Thành L khai: Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, khoảng từ tháng 02/2018, L bắt đầu mua bán ma túy tổng hợp (ma túy đá). Về nguồn gốc ma túy, L khai mua từ một người tên P (không rõ lai lịch) để bán lại kiếm lời. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 27/6/2018, sau khi nhận điện thoại của Nguyễn Thanh S hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 300.000 đồng, L điều khiển xe gắn máy biển số 51P3-7764 đến điểm hẹn tại đầu hẻm 963 đường LG bán cho S, nhưng chưa kịp bán thì đã bị bắt giữ. Ngoài ra, L còn khai ngoài lần bị bắt, trước đó khoảng 20 giờ cùng ngày, Luân có bán cho S 01 bịch ma túy đá giá 200.000 đồng. Tính đến ngày bị bắt, L đã nhiều lần bán ma túy cho S và các con nghiện (không rõ lai lịch). Ong Đức D khai: Lúc 19 giờ 38 phút ngày 27/6/2018, sau khi nhận được điện thoại của Nguyễn Thanh S hỏi mua 01 bịch ma túy đá giá 600.000 đồng, D cất bịch ma túy vào trong hộc của bửng xe gắn máy biển số 83P1-109.93, rồi điều khiển xe này đến điểm hẹn tại bãi đất trống kế bên nhà số 001 lô B1, chung cư LG, Phường K, Quận F bán cho S thì bị bắt giữ. Về nguồn gốc ma túy, D khai mua từ một người tên C (không rõ lai lịch) để bán lại kiếm lời.
Tại Kết luận giám định số: 1136/KLGĐ-H ngày 04 tháng 7 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:
- Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trương Quốc V (người chứng kiến), Nguyễn Văn C và hình dấu Công an Phường 8, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0757g (không phẩy không bảy năm bảy gam), loại Methamphetamine.
- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Chiêm H (người chứng kiến), Chiêm Thành L và hình dấu Công an Phường 8, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2561g (không phẩy hai năm sáu một gam), loại Methamphetamine.
- Gói 3: Tinh thể không màu trong 12 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Chiêm H (người chứng kiến), Chiêm Thành L và hình dấu Công an Phường 8, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,1657g (hai phẩy một sáu năm bảy gam), loại Methamphetamine.
- Gói 4: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trần Chiều Hòa (người chứng kiến), dấu vân tay của Ong Đức D và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5931g (không phẩy năm chín ba một gam), loại Methamphetamine.
Ngày 06/7/2018, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L, Ong Đức D về tội « Mua bán trái phép chất ma túy ».
Tuy nhiên, quá trình điều tra, Ong Đức D có biểu hiện tâm thần, nên Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định pháp y về tình trạng sức khỏe và tâm thần đối với Ong Đức D. Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 2787/KLGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2018 của Trung tâm Pháp y Tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Y tế đã kết luận tình trạng sức khỏe tâm thần đối với Ong Đức D như sau:
1. Về y học:
- Trước, trong khi thực hiện hành vi vi phạm, đối tượng có rối loạn nhân cách và hành vi thực tổn sau chấn thương sọ não (F07.8-ICD10).
- Sau khi thực hiện hành vi vi phạm và cho đến hiện tại, đối tượng có biểu hiện suy nhược cơ thể sau chấn thương sọ não (F07-ICD10).
2. Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi:
- Trước, trong khi thực hiện hành vi vi phạm, đối tượng có hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
- Sau khi thực hiện hành vi vi phạm và cho đến hiện tại, đối tượng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
- Tình trạng tâm thần hiện tại của đối tượng là chưa thể làm việc với Cơ quan điều tra. Đề nghị áp dụng điều trị bắt buộc tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương Biên Hòa để ổn định tình trạng sức khỏe tâm thần hơn sau đó sẽ làm việc tiếp tục với Cơ quan điều tra.
Ngày 19/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với Ong Đức D (Quyết định số: 01/QĐ-VKS- Q6). Ngày 20/7/2018, Công an Quận 6 ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự (Quyết định số: 140), Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can (Quyết định số: 03) và đưa Ong Đức Danh đi chữa bệnh bắt buộc tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương Biên Hòa (theo Biên bản giao, nhận đối tượng bắt buộc chữa bệnh ngày 20/7/2018).
Đối với Nguyễn Văn C, Trần Văn H tuy có hành vi mua ma túy đá để sử dụng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính. Còn những người tên Phương, tên Cường bán ma túy cho Chiêm Thành L, Ong Đức D, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.
Tại Cáo trạng số: 98/CT-VKS-Q6 ngày 23 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L về tội « Mua bán trái phép chất ma túy » theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L đều khai nhận chính các bị cáo, đã thực hiện hành vi mua bán ma túy đá và bị bắt quả tang như bản cáo trạng nêu. Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Thanh S khai tính đến ngày bị bắt, bị cáo mua ma túy đá của Chiêm Thành L khoảng 5, 6 lần (mỗi lần là 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng, riêng ngày bị bắt, do không có tiền, nên L bán cho bị cáo bịch ma túy giá 200.000 đồng). Còn đối với Nguyễn Văn C thì ngoài lần bị phát hiện bắt giữ, trước đó bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho C (mỗi lần là 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng, nhưng bị cáo không nhớ ngày giờ cụ thể). Riêng Trần Văn H (người đi chung với Nguyễn Văn C bị cáo không quen và cũng không bán ma túy cho H lần nào);
Bị cáo Chiêm Thành L khai ngoài 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Thanh S vào ngày bị bắt, trước đó bị cáo đã bán ma túy cho S khoảng 05 lần (mỗi lần là 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng) và thu lợi từ hành vi bán ma túy khoảng từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng (trong đó, thu lợi từ hành vi bán ma túy cho Nguyễn Thanh S là 400.000 đồng).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Phạt bị cáo Nguyễn Thanh S từ 07 năm đến 09 năm tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy » theo điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Phạt bị cáo Chiêm Thành L từ 08 năm đến 10 năm tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy » theo điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Phạt tiền mỗi bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe gắn máy biển số 51P3-7761, số khung DY10-0091237, số máy 150FMH-0091237 (loại xe hai bánh, nhãn hiệu DAYANG, số loại DY110, sơn màu Xanh, dung tích 108); 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 6300, số Imei: 356415/02/152293/7; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (mặt kính bị nứt), số Imei 1: 356400/07/298908/2, số Imei 2: 356401/07/298908/0 và số tiền 500.000 đồng.
Tịch thu, tiêu hủy: 03 gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1136/2018 (ký hiệu gói 1, gói 2, gói 3), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá tự chế (gồm 01 bình nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa); 03 cây kéo (01 cây có cán nhựa màu vàng, 01 cây có cán bằng kim loại, 01 cây bằng kim loại màu đen); 01 cây nhíp bằng kim loại màu trắng; 03 ống hút nhựa màu trắng được cắt xéo một đầu; 06 bịch nylon có rãnh âm dương (02 bịch có rãnh màu xanh, 04 bịch có rãnh màu đỏ); 01 hộp quẹt gas màu vàng; 01 bình nhựa bên ngoài có ghi chữ C2; 02 ống thủy tinh; 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng; 01 bật lửa màu xanh; 01 hộp màu xanh bằng kim loại, bên ngoài có chữ DOUBLEMINT; 03 sim điện thoại có số seri: 117119214483, 840118035008 OT, 8401180350081959 OT.
Trả lại bị cáo Chiêm Thành L số tiền 200.000 đồng.
Đối với 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1136/2018 (ký hiệu gói 4), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mobistar, vỏ màu đỏ đen (có 02 sim điện thoại số seri: 1171150050259, 898407210-014937064) và số tiền 150.000 đồng thu giữ của Ong Đức D. Do có liên quan đến việc điều tra làm rõ hành vi của Ong Đức D, nên cần giao cho Công an Quận 6 giữ để điều tra và xử lý sau.
Các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.
Lời nói sau cùng, các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L đều nhận thức được hành vi của các bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất để các bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6,
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối chiếu lời khai của các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L tại phiên tòa là phù hợp với nhau và phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của Nguyễn Văn C, của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L đã phạm tội « Mua bán trái phép chất ma túy ». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Bị cáo Nguyễn Thanh S đã mua bán chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) có khối lượng 0,0757 gam; bị cáo Chiêm Thành L đã mua bán chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) có khối lượng 2,4218 gam. Và việc mua bán ma túy của các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L đã diễn ra trong nhiều lần trong khoảng thời gian tương đối dài. Do vậy, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L về tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp « Phạm tội 02 lần trở lên » theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.
Các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L đều có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng do hám lợi, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L là rất nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác , do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt các bị cáo những mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và buộc bị cáo Chiêm Thành L nộp lại 400.000 đồng, là tiền do bị cáo phạm tội mà có để sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Đối với số tiền mà bị cáo Chiêm Thành L khai thu lợi từ hành vi mua bán ma túy tổng hợp (ngoài 400.000 đồng thu lợi từ hành vi bán ma túy cho Nguyễn Thanh S). Xét thấy, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác, nên Hội đồng xét xử không đủ căn cứ để buộc bị cáo nộp lại khoản tiền này.
[5] Việc xử lý vật chứng: 500.000 đồng (trong đó, có 300.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thanh S, 200.000 đồng thu giữ của bị cáo Chiêm Thành L) là tiền do các bị cáo S, L phạm tội mà có, nên Hội đồng xét xử tịch thu, nộp ngân sách nhà nước cùng với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 6300, số Imei: 356415/02/152293/7 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (mặt kính bị nứt), số Imei 1: 356400/07/298908/2, số Imei 2: 356401/07/298908/0 mà các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L dùng vào việc phạm tội theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Đối với chiếc xe gắn máy biển số 51P3-7761 mà bị cáo Chiêm Thành L sử dụng làm phương tiện phạm tội, theo Kết luận giám định số: 6365/KLGĐ-X(Đ6) ngày 03/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Phiếu trả lời xác minh số: 3478/TLXM-CSGT ngày 02/7/2018 của Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh thì chiếc xe này có số khung DY10-0091237, số máy 150FMH-0091237 (loại xe hai bánh, nhãn hiệu DAYANG, số loại DY110, sơn màu Xanh, dung tích 108), do ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959, trú tại 121 đường LTK, Phường G, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ xe. Tuy nhiên, qua xác minh tại Công an Phường G, quận TB được biết tại địa chỉ 121 đường LTK, Phường G, quận TB không có ai tên Nguyễn Văn T thường trú hay cư ngụ. Ngày 02/10/2018, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã đề nghị thông báo tìm chủ sở hữu của chiếc xe gắn máy biển số 51P3-7761 trên Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn không có ai đến nhận. Còn bị cáo Chiêm Thành L khai mua chiếc xe này tại cửa hàng mua bán xe ở khu vực bến xe Miền Tây (không xác định được địa chỉ) vào khoảng tháng 3/2018 với giá trên 5.000.000 đồng (xe có giấy tờ, nhưng bị cáo đã làm mất). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định chiếc xe gắn máy biển số 51P3-7761 hiện chưa rõ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nên nếu trong thời hạn 04 (bốn) tháng, kể từ ngày thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe thì tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Còn nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này thì trả lại cho họ.
Đối với 03 gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1136/2018 (ký hiệu gói 1, gói 2, gói 3), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá tự chế (gồm 01 bình nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa); 03 cây kéo (01 cây có cán nhựa màu vàng, 01 cây có cán bằng kim loại, 01 cây bằng kim loại màu đen); 01 cây nhíp bằng kim loại màu trắng; 03 ống hút nhựa màu trắng được cắt xéo một đầu; 06 bịch nylon có rãnh âm dương (02 bịch có rãnh màu xanh, 04 bịch có rãnh màu đỏ); 01 hộp quẹt gas màu vàng; 01 bình nhựa bên ngoài có ghi chữ C2; 02 ống thủy tinh; 01 cây kẹp bằng kim loại màu trắng; 01 bật lửa màu xanh; 01 hộp màu xanh bằng kim loại, bên ngoài có chữ DOUBLEMINT; 03 sim điện thoại có số seri: 117119214483, 840118035008 OT, 8401180350081959 OT, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Còn số tiền 200.000 đồng (trong số 400.000 đồng thu giữ của bị cáo Chiêm Thành L). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo L vì không đủ chứng cứ xác định do bị cáo phạm tội mà có hoặc bị cáo sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Riêng 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1136/2018 (ký hiệu gói 4), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Mobistar, vỏ màu đỏ đen (có 02 sim điện thoại số seri: 1171150050259,898407210-014937064) và số tiền 150.000 đồng, do xét thấy có liên quan đến việc điều tra làm rõ hành vi của Ong Đức D, nên Hội đồng xét xử giao lại cho Công an Quận 6 giữ để điều tra và xử lý sau.(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 141/PNK ngày 23 tháng 8 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL24, 25 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 06/2018 ngày20 tháng 8 năm 2018 của Kho bạc Nhà nước Quận 6 - BL 28).
Đối với chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Ultimo, sơn màu đen, biển số 83P1- 109.93 thu giữ của Ong Đức D. Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Châu Ghệt H (mẹ Ong Đức D), nên đã xử lý trả lại bà Châu Ghệt H ( theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 12/9/2018 - BL195), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Đối với Nguyễn Văn C, Trần Văn H, tuy có hành vi mua ma túy để sử dụng, nhưng Viện kiểm sát xác định chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính. Còn những người tên P1, tên C1, Cơ quan điều tra không xác định được, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[7] Đối với Ong Đức D, ngày 20/7/2018, Công an Quận 6 đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và đưa đi chữa bệnh bắt buộc tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương Biên Hòa. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Ong Đức D khỏi bệnh, Cơ quan điều tra làm rõ hành vi của Ong Đức D sẽ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[8] Các bị cáo Nguyễn Thanh S, Chiêm Thành L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh S (US), Chiêm Thành L phạm tội: « Mua bán trái phép chất ma túy ».
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S (US) 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2018.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Chiêm Thành L 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2018.
- Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Buộc bị cáo Nguyễn Thanh S nộp phạt 5.000.000 (năm triệu) đồng. Buộc bị cáo Chiêm Thành L nộp phạt 7.000.000 (bảy triệu) đồng.
- Căn cứ điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Buộc bị cáo Chiêm Thành L nộp lại 400.000 (bốn trăm ngàn) đồng, là tiền do phạm tội mà có để sung vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 51P3-7761, số khung DY10-0091237, số máy 150FMH-0091237 (loại xe hai bánh, nhãn hiệu DAYANG, số loại DY110, sơn màu Xanh, dung tích 108), nếu trong thời hạn 04 (bốn) tháng, kể từ ngày thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe. Còn nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này thì trả lại cho họ; 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 6300, số Imei: 356415/02/152293/7; 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung (mặt kính bị nứt), số Imei 1: 356400/07/298908/2, số Imei 2: 356401/07/298908/0 và 500.000 (năm trăm ngàn) đồng.
- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu, tiêu hủy: 03 (ba) gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1136/2018 (ký hiệu gói 1, gói 2, gói 3), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn;01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá tự chế (gồm 01 bình nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa); 03 (ba) cây kéo (01 cây có cán nhựa màu vàng, 01 cây có cán bằng kim loại, 01 cây bằng kim loại màu đen); 01 (một) cây nhíp bằng kim loại màu trắng; 03 (ba) ống hút nhựa màu trắng được cắt xéo một đầu; 06 (sáu) bịch nylon có rãnh âm dương (02 bịch có rãnh màu xanh, 04 bịch có rãnh màu đỏ); 01 (một) hộp quẹt gas màu vàng; 01 (một) bình nhựa bên ngoài có ghi chữ C2; 02 (hai) ống thủy tinh; 01 (một) cây kẹp bằng kim loại màu trắng; 01 (một) bật lửa màu xanh; 01 (một) hộp màu xanh bằng kim loại, bên ngoài có chữ DOUBLEMINT; 03 (ba) sim điện thoại có số seri: 117119214483, 840118035008 OT, 8401180350081959 OT.
- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại bị cáo Chiêm Thành L 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
Giao 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1136/2018 (ký hiệu gói 4), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn; 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Mobistar, vỏ màu đỏ đen (có 02 sim điện thoại số seri:1171150050259, 898407210-014937064) và 150.000 (một trăm năm mươi ngàn) đồng cho Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh giữ để điều tra và xử lý sau, do xét thấy có liên quan đến việc điều tra làm rõ hành vi của Ong Đức D.
- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
- Các bị cáo Nguyễn Thanh Sang, Chiêm Thành Luân có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.
Bản án 92/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 92/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về