TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 92/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ T VỚI ANH N
Ngày 27 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 422/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 281/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm: 1985, đăng ký thường trú: Ấp PL, xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre; chỗ ở hiện nay: Ấp AN, xã ĐP, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm: 1973, địa chỉ: Ấp PL, xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 10 năm 2018, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Lê Thị T trình bày:
Chị và anh Nguyễn Văn N tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2004 tại Ủy ban nhân dân xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc. Từ năm 2016 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, anh N thường xuyên nhậu nhẹt và không chịu lo làm ăn. Chị và anh N không còn sống chung với nhau đến nay khoảng 02 năm. Nhận thấy thời gian không sống chung với nhau đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn và không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin được ly hôn với anh N.
Trong thời gian chung sống, chị và anh N có 02 con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2004 và Nguyễn Yến Q, sinh ngày 12 tháng 10 năm 2007, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Thư, không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con; đồng ý để anh N tiếp tục nuôi dưỡng cháu Trí, chị không cấp dưỡng cho con.
Chị và anh N không có tài sản chung, không có nợ chung.
Do bị đơn là anh Nguyễn Văn N vắng mặt tại các buổi hòa giải và phiên tòa nên không có trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Kiểm sát viên trình bày ý kiến phát biểu về nội dung và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng dân sự: Chị Lê Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa chị với anh Nguyễn Văn N. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.
Anh Nguyễn Văn N là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh N.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn N chung sống có đăng ký kết hôn năm 2004 tại Ủy ban nhân dân xã BK, huyện M, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của chị T và anh N được xem là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị T cho rằng chị và anh N mâu thuẫn do anh N thường xuyên nhậu nhẹt, không chịu làm việc để chăm lo cho gia đình từ đó vợ chồng hay cãi nhau. Chị và anh N không còn sống chung với nhau đến nay khoảng 02 năm, không ai quan tâm gì đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin ly hôn với anh N. Tòa án đã triệu tập anh N đến để hòa giải, tìm biện pháp hàn gắn đoàn tụ nhưng anh N không đến.
Như vậy, cho thấy tình trạng hôn nhân của chị T và anh N đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T để giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.
[3] Về con chung: Chị T và anh N có 02 con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2004 và Nguyễn Yến Q, sinh ngày 12 tháng 10 năm 2007. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q, không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con; chị T đồng ý để anh N tiếp tục nuôi dưỡng cháu T, chị không cấp dưỡng cho con.
Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu Q đang sống với chị T và cháu có nguyện vọng được tiếp tục sống với chị, đồng thời cháu T đang sống với anh N và cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống với anh. Do đó, để đảm bảo tâm sinh lý của cháu được ổn định nên cần giao cháu Q cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh N tiếp tục nuôi dưỡng. Đối với việc cấp dưỡng cho con do chị T không có yêu cầu nên không xem xét; hiện tại, anh N không có ý kiến về vấn đề cấp dưỡng cho con, nếu anh N có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác [4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T khai chị và anh N không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T. Chị Lê Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.
Về con chung: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn N có hai con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2004 và Nguyễn Yến Q, sinh ngày 12 tháng 10 năm 2007.
Chị Lê Thị T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là Nguyễn Yến Q.
Ghi nhận chị Lê Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Văn N cấp dưỡng cho con.
Anh Nguyễn Văn N được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là Nguyễn Thanh T.
Chị Lê Thị T không cấp dưỡng cho con chung.
Chị Lê Thị T, anh Nguyễn Văn N được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị T trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên ghi nhận.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0020806 ngày 04 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M. Chị Lê Thị T đã nộp đủ án phí.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 92/2018/HNGĐ-ST ngày 27/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị T với anh N
Số hiệu: | 92/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về