TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 92/2017/HSPT NGÀY 19/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/HSPT ngày 20 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo Cao Xuân B do có kháng cáo của bị cáo Cao Xuân B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2017/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Toà án nhân dân quận A, thành phố Hải Phòng.
Bị cáo có kháng cáo:
Cao Xuân B, sinh năm 1983 tại Hải Dương; ĐKHKTT: Thôn X, xã H, huyện K, tỉnh Hải Dương, tạm trú tại: Số 162/16 I, phường Y, quận D, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con ông Cao Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1963; có vợ là Nguyễn Thị V1, sinh năm 1995; có 02 (Hai) con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2016; tiền sự: Không; tiền án:
Bản án số 577/2011/HSPT ngày 20/9/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”(chưa được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 07/5/2017 đến ngày 10/5/2017 chuyển sang tạm giam. Có mặt.
NHẬN THẤY
Theo Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận A và Bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân quận A, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 20 giờ 10 phút ngày 06/5/2017, tại Cảng hàng không quốc tế Cát Bi- thuộc phường E, quận A, thành phố Hải Phòng, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận A phối hợp với lực lượng An ninh hàng không tại sân bay Cát Bi bắt quả tang Cao Xuân B (là hành khách của chuyến bay VN1189 đường bay Hải Phòng – Thành phố Hồ Chí Minh, số ghế 1D) tàng trữ trái phép trong quần lót B đang mặc 34,3709 gam chất ma túy ở trong 04 túi nilon có chứa thành phần Methamphetamine, MDMA và Ketamine. Qua giám định trong 19,722 gam tinh thể màu trắng, giám định hàm lượng có 3,3638 gam Methamphetamine; 8,5362 gam chất bột màu xanh, giám định hàm lượng có 0,4182 gam Ketamine và 0,2816 gam MDMA; 6,1127 gam chất bột màu cam, giám định hàm lượng có 0,0061 gam Ketamine và 0,00122 gam MDMA.
Tại Cơ quan điều tra, Cao Xuân B khai nhận: Do có nhu cầu mang ma túy vào Thành phố Hồ Chí Minh để bản thân sử dụng nên khoảng 11 giờ 00 phút ngày 06/5/2017, B đi taixi (không xác định được BKS) từ nhà ở thôn X, xã H, huyện K, tỉnh Hải Dương để mua ma túy. Tại khu vực thị trấn K, B gặp và hỏi mua được của 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi (không quen biết) 01 túi ma túy “đá”, 01 túi ma túy thảo mộc đã nghiền thành bột, 01 viên ma túy tổng hợp; 01 túi chất bột màu trắng và 01 túi chất bột màu cam (02 túi chất bột này không phải là ma túy, bị cáo mua nhằm mục đích mang vào thành phố Hồ Chí Minh để pha trộn vào ma túy khi sử dụng) với giá 5.000.000 đồng. B cất số ma túy và các túi bột trên vào quần bò rồi đi taxi về nhà. Khoảng 17 giờ cùng ngày, B cùng vợ là Nguyễn Thị V1 và con là Cao Nguyễn Hải  đi taxi đến Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, thành phố Hải Phòng làm thủ tục bay vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, B tự tay lấy ma túy từ túi quần bò cho vào quần lót. Đến khoảng 20 giờ 10 cùng ngày, khi B qua cửa kiểm tra an ninh để vào phòng chờ lên máy bay, thì bị phát hiện và bắt quả tang.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2017/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2017, Toà án nhân dân quận A đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14, xử phạt: Cao Xuân B 05 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Ngoài ra toà án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/10/2017 bị cáo Cao Xuân B kháng cáo xin giảm hình phạt tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Cao Xuân B vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét.
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Cao Xuân B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo của bị cáo Cao Xuân B: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, mặc dù bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nhưng xét thấy lượng ma túy bị cáo tàng trữ thấp so với khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, mức hình phạt đối với bị cáo mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên có phần nghiêm khắc. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Xuân B: Giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Cao Xuân B khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người làm chứng, Kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Do cần ma túy để sử dụng nên khoảng 11 giờ ngày 06/5/2017, Cao Xuân B tại khu vực thị trấn K, tỉnh Hải Dương, đã mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không quen biết 34.3709 gam ma túy gồm: 19,722 gam tinh thể màu trắng, giám định hàm lượng có 3,3638 gam Methamphetamine ; 8,5362 gam chất bột màu xanh, giám định hàm lượng có 0,4182 gam Ketamine và 0,2816 gam MDMA; 6,1127 gam chất bột màu cam, giám định hàm lượng có 0,0061 gam Ketamine và 0,00122 gam MDMA. Vào khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày, khi đi qua cửa kiểm tra an ninh tại Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, Cao Xuân B bị phát hiện và bắt quả tang. Tổng trọng lượng ma túy có hàm lượng tinh chất mà bị cáo tàng trữ 4,07092 gam thuộc các chất ma túy khác ở thể rắn. Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Cao Xuân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, trật tự công cộng, gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân nên cần xét xử nghiêm.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Cao Xuân B, Hội đồng xét xử đánh giá như sau:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, lần phạm tội này bị cáo phải chịu trách nhiệm tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông nội tham gia cách mạng, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, bác ruột là liệt sỹ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Mặc dù, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nhưng lượng ma túy bị cáo tàng trữ là thấp so với lượng ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi lẽ: Lượng ma túy bị cáo tàng trữ có ba chất Methamphetamine, MDMA và Ketamine, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thuộc các chất ma túy khác ở thể rắn quy có khối lượng từ 01 đến 20 gam có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Cao Xuân B 5 năm tù có phần là nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Xuân B, s ửa Bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt, chấp nhận lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm mới đảm bảo công bằng pháp luật.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không xét.
Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
1. Sửa Bản án sơ thẩm: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Xuân B, giảm hình phạt cho bị cáo.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội, xử phạt: Cao Xuân B 51 (Năm mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/5/2017.
2. Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 92/2017/HSPT ngày 19/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 92/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về