Bản án 9/2019/HSST ngày 14/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH  ĐẮK  LẮK

BẢN ÁN 9/2019/HSST NGÀY 14/03/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 14/03/2019 tại Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2019/HSST ngày 31/01/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HS ngày 12/02/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/HSST ngày 27/02/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lục Quang C; Sinh năm: 1988; tại tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiêp: Làm nông; Trình độ học vấn: 10/12;

Họ và tên cha: Lục Văn H, sinh năm: 1959 (đã chết); Họ và tên mẹ: Hoàng Thị P, sinh năm: 1961;

Họ và tên vợ: Hoàng Thanh T, sinh năm: 1991 (đã ly hôn);

Bị cáo có 01 con sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/12/2018 đến ngày 01/02/2019 được tại ngoại – có mặt.

Người bị hại: Anh Hoàng Văn L – Sinh năm 1995. Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Bà Hoàng Thị P– sinh năm 1961.

Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

- Bà Bàn Thị M– sinh năm 1970.

Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Lục Quang C.

Ông Nguyễn Đình Đ - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk– có mặt.

Người phiên dịch cho  bị cáo Lục Quang C: Bà Nông Thị H – Chủ tịch hội Nông dân huyện B – có mặt.

Những người làm chứng:

- Anh Phùng Hoàng D – sinh năm 2000.

Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.

- Anh Hoàng Văn T – sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị T – sinh năm 1963.

Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 8/9/2018, Hoàng Văn L, đi đến rẫy cà phê của gia đình bố mẹ Lục Quang C ở Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk để hỏi về việc tại sao C lại can thiệp vào việc mâu thuẩn giữa L và Phùng Hoàng D ở Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

Khi L đến thấy D và C đang ở rẫy, do mâu thuẫn từ trước, nên L và D đã xảy ra xô xátđánh nhau, nhưng được  C ngăn cản. Thấy C can thiệp vào việc L đánh D, nên L có thái độ tức giận và bỏ về.

Khoảng 18 giờ cùng ngày, Lục Quang C đến chơi Internet tại quán N của bà Nguyễn Thị T ở thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, tại đây C gặp L cùng với Hoàng Văn T, sinh năm 1993, trú tại thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cũng đang chơi Internet. L thấy C đến liền bỏ đi ra khu vực ở sân phía trước quán lấy xe đi về, C đi theo giữ xe L lại và dùng tay phải đấm vào mặt L 01 cái nhưng không trúng, do bị đánh L cũng dùng tay đánh lại C thì bất ngờ C dùng tay phải rút con dao (loại dao gấp dài khoảng 20cm) từ trong túi quần ra đưa lên theo chiếu hướng từ trên xuống và từ phải  Qua trái chém mạnh vào người L, lúc này L dùng tay trái đưa lên đỡ, nên bị dao trúng vào cổ cánh tay trái của L gây thương tích. Sau đó L được mọi người đưa đến Bệnh viện Đa khoa huyện B đi cấp cứu, còn C bỏ trốn, đến ngày 15/12/2018 bị Cơ quan điều tra Công an huyện B bắt tạm giam.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 09/9/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B xác định: Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại quán Internet của bà Nguyễn Thị T ở thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, phát hiện nhiều dấu vết màu đỏ sẫm đã khô (nghi vết máu) nằm rải rác.

Tại bản kết luận Pháp y thương tích số 1131/PY-TgT ngày 03/10/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Anh Hoàng Văn L bị vết thương cổ tay trái, gãy đầu dưới xương trụ và đứt bó mạch thần kinh trụ với tỷ lệ thương tích là 29% sức khỏe, vật tác động gây ra thương tích là vật sắc bén.

Về vật chứng vụ án: Theo lời khai của bị cáo Lục Quang C thể hiện hung khí gây thương tích cho bị hại anh Hoàng Văn L là 01 con dao, loại dao gấp một lưỡi sắc, mũi nhọn, thân cán và lưỡi dao được sơn màu đen, có chiếu dài từ 18 – 20 cm. Sau khi gây án bị cáo C đã vứt con dao tại khu vực cầu suối cạn ở Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 20/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Sau vụ án xảy ra phía bị cáo cùng phía bị hại tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong toàn bộ các chi phí điều trị và các chi phí khác tổng số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Tại phiên tòa bị hại anh Hoàng Văn L không có yêu cầu, ý kiến gì về bồi thường thiệt hại.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 31/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo bị cáo Lục Quang C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Lục Quang C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, người bị hại thừa nhận lời khai của bị cáo tại phiên tòa là đúng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội phân tích về tính chất, hậu quả cũng như hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lục Quang C phạm tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo.

- Xử phạt bị cáo Lục Quang C từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra bị cáo đã cùng gia đình và phía bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong toàn bộ các chi phí điều trị và các chi phí khác tổng số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) tại phiên tòa bị hại không có ý kiến yêu cầu gì về phần bồi thường nên không đề cập giải quyết.

Người bào chữa cho bị cáo ông Nguyễn Đình Đ có ý kiến: Viện kiểm sát truy tố bị cáo Lục Quang C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như: Sau khi phạm tội đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, trước khi phạm tội nhân thân tốt, do đó đề nghị Hội đồng xét xử giảm mức thấp nhất về hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận địnhnhư sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa lời khai của bị cáo Lục Quang C khai phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận:

Do có   mâu thuẫn từ trước, nên vào ngày 08/8/2018, tại quán   Internet của bà Nguyễn Thị T ở Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Lục Quang C đã có hành vi dùng dao chém mạnh vào người L, lúc này Long dùng tay trái đưa lên đỡ, nên bị dao trúng vào cổ cánh tay trái của L gây thương tích gây thương tích cho Hoàng Văn L 29% sức khỏe. Hành vi của bị cáo Lục Quanh C đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm.

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trương hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác, coi thường pháp luật,  làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử phạt  bị cáo một hình phạt nghiêm tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội để bảo đảm tính giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lục Quang C có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b (tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại),  điểm s (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh

tế đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, trước khi phạm tội nhân thân tốt, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ về hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra phía bị cáo và gia đình bị hại tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong toàn bộ các chi phí điều trị và các chi phí khác tổng số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Tại phiên tòa bị hại anh Hoàng Văn L không yêu bồi thường và không có ý kiến gì thêm nên không đề cập.

[7] Về án phí: Do bị cáo thuộc hộ nghèo, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên bị cáo được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lục Quang C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Lục Quang C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 15/12/2018 đến ngày 01/02/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị hại tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong toàn bộ các chi phí điều trị và các chi phí khác tổng số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Tại phiên tòa bị hại anh Hoàng Văn L không yêu bồi thường và không có ý kiến gì thêm nên không đề cập.

3. Về chi phí tố tụng: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm  2015;  Điểm  đ  khoản  1  Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo Lục Quang C được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 9/2019/HSST ngày 14/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:9/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;