Bản án 91/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 91/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 87/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn M, sinh năm 1986 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn S, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; con ông Phạm Văn Ch, sinh năm 1963 và bà Vũ Thị Kh, sinh năm 1964; Có vợ là Đinh Thị Ư, sinh năm 1992; Bị cáo có 03 con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Bản án số 22/2010/HSST ngày 13/5/2010 Tòa án nhân dân thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng 10 ngày. Bị cáo đã chấp hành xong.

+ Ngày 20/01/2016 Đồn Công an Gia Sinh, Công an huyện Gia Viễn xử phạt 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/6/2021, chuyển tạm giam ngày 12/6/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình.(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Quách Văn H, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn C, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Phạm Văn B, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn S, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, ông Quách Văn M, chị Đinh Thị Ư (Tất cả vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn M là người nghiện ma túy từ năm 2014. Để có tiền sử dụng ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 03/6/2021 M điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 35H4- 4893 từ nhà đến huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình để tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực đường liên xã thuộc xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình thì nhìn thấy một người nam giới không quen biết trông giống người nghiện, nên M đi đến gần người đàn ông hỏi “anh có hàng không bán cho em cái năm”, người nam giới hiểu ý M hỏi mua ma túy nên trả lời “có đưa tiền đây”, M lấy tiền 500.000 đồng trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra đưa cho người nam giới, người này cầm tiền và đưa lại cho M 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc mầu trắng. M cầm lấy kiểm tra thấy bên trong có chất bột dạng cục mầu trắng xác định đúng là ma túy nên cầm ở tay phải rồi điều khiển xe về nhà, người bán ma túy cũng đi luôn. Về đến nhà, M dùng kéo cắt giấy trắng, dùng dao lam chia túi ma túy thành 11 gói nhỏ mỗi gói được gói ngoài bằng giấy mầu trắng mục đích để sử dụng và bán với giá 200.000 đồng một gói. Khoảng 08 giờ ngày 03/6/2021 thì Anh Quách Văn H sinh năm 1984, trú tại thôn Cẩm Địa, xã L, huyện N sử dụng số điện thoại 0349.411.846 gọi đến số 0962.453.258 của M và nói “anh có hàng không bán cho em hai cái mỗi cái hai trăm nghìn đồng”, M đồng ý bán và trả lời “ ừ mày đi ra khu vực nghĩa trang thôn Thần Lũy 1 tao bán cho “. Sau đó M bỏ 11 gói ma túy vào túi áo ngực phía trước bên trái đang mặc và điều khiển xe mô tô đi đến điểm hẹn để bán ma túy cho H. Đến nơi thì gặp tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã Đ đang làm nhiệm vụ thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu M xuống xe kiểm tra. Biết không thể che giấu nên M đã tự giác móc trong túi áo ngực 01 túi nilong bên trong có 11 gói ma túy giao nộp cho tổ Công tác và khai nhận là ma túy đang mang đi để bán 02 gói cho Quách Văn H. Tổ công tác đã lập biên bản và thu giữ của M 11 gói nhỏ được gói bên ngoài bằng giấy mầu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng.

Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ của Phạm Văn M 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen trắng số sê ri 1: 354191109829241, số sê ri 2: 354194100949240 lắp sim 0962.453.258; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha biển kiểm soát 35H4- 4893; Thu giữ của Quách Văn H 01 điện thoại Nokia số Imei 351869077175779 lắp sim số 0349411846.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của M thu giữ 01 kéo cắt kim loại có cán màu xanh đỏ kích thước 11x2,3cm đã qua sử dụng; 01 chiếc dao lam kim loại màu trắng nhãn hiệu Croma có kích thước 4,3x2,2cm; 03 tờ giấy mầu trắng kích thước 4,4x4,4cm; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước 5,3x4,8cm.

Kiểm tra phương tiện xe mô tô biển kiểm soát 35H4- 4893 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Cân xác định khối lượng chất dạng tinh thể màu trắng chứa trong 11 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy mầu trắng thu giữ của Phạm Văn M. Gói thứ nhất có khối lượng 0,03gam ký hiệu M1, gói thứ hai có khối lượng 0,03gam ký hiệu M2, gói thứ 3 có khối lượng 0,03 kí hiệu M3, gói thứ tư có khối lượng 0,05 kí hiệu M4, gói thứ 5 có khối lượng 0,04gam kí hiệu M5, gói thứ 6 có khối lượng 0,04gam kí hiệu M6, gói thứ 7 có khối lượng 0,03gam kí hiệu M7, gói thứ 8 có khối lượng 0,04gam kí hiệu M8, gói thứ 9 có khối lượng 0,03gam kí hiệu M9, gói thứ 10 có khối lượng 0,04gam kí hiệu M10, gói thứ 11 có khối lượng 0,03gam kí hiệu M11 để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 439/KLGĐ-PC09-MT ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng gửi giám định kí hiệu từ M1- M11 có tổng khối lượng là 0,3954gam là ma túy, loại Heroine Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, có số thứ tự 09; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N có tiến hành ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can sau đó được sao lưu vào 02 đĩa DVD, niêm phong chuyển theo hồ sơ vụ án.

Đối với 01 phong bì niêm phong theo quy định bên trong là vỏ gói, phong bì niêm phong cũ được chuyển theo hồ sơ vụ án Tại bản cáo trạng số 87/CT - VKSNQ ngày 06/9/2021 đã truy tố bị cáo Phạm Văn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn M từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03/6/2021. Đề nghị phạt bổ sung với bị cáo Phạm Văn M từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,1448(Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi tám) gam còn lại trong mẫu M1 –M11 là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ gói bao gói niêm phong cũ được niêm phong trong một phong bì ghi số 439/KLGĐ-PC09- MT theo quy định của pháp luật; 01 kéo cắt kim loại có cán màu xanh đỏ kích thước 11x2,3cm đã qua sử dụng; 01 chiếc dao lam kim loại màu trắng nhãn hiệu Croma có kích thước 4,3x2,2cm; 03 tờ giấy mầu trắng kích thước 4,4x4,4cm; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước 5,3x4,8cm.

Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen trắng số sê ri 1: 354191109829241, số sê ri 2: 354194100949240 lắp sim 0962.453.258 của Phạm Văn M; 01 điện thoại Nokia số Imei 351869077175779 lắp sim số 0349411846 thu giữ của Quách Văn H.

Trả lại cho Anh Phạm Văn B 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha biển kiểm soát 35H4- 4893.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số 439/KLGĐ-PC09-MT ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định:

Hồi 09 giờ 40 phút ngày 03/6/2021, tại thôn Thần Lũy 1, xã Đ, huyện N bị cáo Phạm Văn M có hành vi cất giấu trong người 11 gói Heroine được gói bên ngoài bằng giấy mầu trắng có tổng khối lượng 0,3954 gam, nhằm mục đích sử dụng và bán 02 gói cho Anh Quách Văn H.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251: Tội mua bán trái phép chất ma túy.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

……………………………………………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:

Hành vi tàng trữ ma túy nhằm mục đích bán cho những người nghiện để kiếm lợi, của bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Xét bản thân bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi mua bán ma túy của mình bị Nhà nước cấm. Bị cáo nhận thức được mua bán, sử dụng ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay. Đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp…Nhận thức được hành vi bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như giúp bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Từ những nhận định trên xét thấy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo mua bán ma túy nhằm mục đích bán kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,1448(Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi tám) gam còn lại trong mẫu M1 –M11 là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ gói bao gói niêm phong cũ được niêm phong trong một phong bì ghi số 439/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 kéo cắt kim loại có cán màu xanh đỏ kích thước 11x2,3cm đã qua sử dụng; 01 chiếc dao lam kim loại màu trắng nhãn hiệu Croma có kích thước 4,3x2,2cm; 03 tờ giấy mầu trắng kích thước 4,4x4,4cm; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước 5,3x4,8cm không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen trắng số sê ri 1: 354191109829241, số sê ri 2: 354194100949240 lắp sim 0962.453.258 của Phạm Văn M; 01 điện thoại Nokia số Imei 351869077175779 lắp sim số 0349411846 thu giữ của Quách Văn H có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 35H4- 4893 là tài sản hợp pháp của Anh Phạm Văn B (em trai bị cáo M). Anh Bạo không biết M sử dụng xe của mình để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho Anh Phạm Văn B.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định tại Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy"

 Áp dụng: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn M 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03/6/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Văn M 10.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1448(Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi tám) gam còn lại trong mẫu M1 –M11 là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ gói bao gói niêm phong cũ được niêm phong trong một phong bì ghi số 439/KLGĐ- PC09-MT theo quy định của pháp luật; 01 kéo cắt kim loại có cán màu xanh đỏ kích thước 11x2,3cm đã qua sử dụng; 01 chiếc dao lam kim loại màu trắng nhãn hiệu Croma có kích thước 4,3x2,2cm; 03 tờ giấy mầu trắng kích thước 4,4x4,4cm; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước 5,3x4,8cm.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen trắng số sê ri 1: 354191109829241, số sê ri 2: 354194100949240 lắp sim 0962.453.258 của Phạm Văn M; 01 điện thoại Nokia số Imei 351869077175779 lắp sim số 0349411846 thu giữ của Quách Văn H.

- Trả lại cho Anh Phạm Văn B 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 35H4- 4893.

(Chi tiết theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần vật chứng có liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần vật chứng có liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 91/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;