Bản án 91/2021/HSST ngày 26/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 91/2021/HSST NGÀY 26/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2021/TLST-HS, ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:70/2021/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2021/QĐ-HPT, ngày 01 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm T; Giới tính: Nam; sinh ngày: 10.8.1999, tại tỉnh Bình Thuận.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: khu phố 13, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: làm biển;

Tiền án, tiền sự: Không Quan hệ gia đình:

Cha: Phạm V, sinh năm 1970; mẹ: Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1961. Hiện trú tại khu phố 13, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong.

Anh, chị, em ruột: có 03 người, bị can là con nhỏ nhất trong gia đình, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1993.

Vợ; Con: chưa có Bị can bị bắt tạm giữ ngày 26.12.2020, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phong.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1.Ông Phạm V, sinh năm 1970 Nơi cư trú: khu phố 13, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt tại phiên tòa

2. Bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1968 Nơi cư trú: khu phố 13, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên vào khoảng 20 giờ ngày 26.12.2020, Phạm T một mình đi đến khu vực bãi rác dừa thuộc khu phố 5, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong gặp Q (không rõ nhân thân, lai lịch) mua của Q 1.000.000 đồng ma túy đá. Q đưa cho T 03 gói ma túy đá. Nhận ma túy xong T cất giấu ma túy trong người đi đến Miếu Thanh Minh thuộc thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong để chơi.

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 26.12.2020, tổ tuần tra Công an thị trấn Liên Hương tuần tra đến khu vực bên hông quán cà phê MingHouse thuộc khu phố 5, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong. Phát hiện bắt quả tang Phạm T sinh năm 1999 cư trú tại khu phố 13, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ dưới chân của Phạm T 01 gói nylon có chứa chất tinh thể màu trắng và T khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy đá của T; thu giữ dưới chân của T 01 điện thoại di động hiệu Forme màu đen và T khai nhận là điện thoại của T; 01 xe mô tô hiệu Honda AirBalde biển số 86B1-406.29. Huỳnh Thị Ngọc T1 sinh ngày 29.12.2003 đi chung với T tự nguyện lấy trong túi quần phía sau bên phải ra 01 gói nylon không màu được hàn kín, kích thước (04cm x 1,5cm), bên trong gói nylon có chất tinh thể màu trắng và 01 gói nylon không màu nẹp kín một đầu màu đỏ, kích thước (7,5cm x 04cm) bên trong gói nylon có chất tinh thể màu trắng. T1 khai nhận chất tinh thể màu trắng trong 02 gói nylon là ma túy đá của T đưa T1 giữ hộ nên T1 tự nguyện giao nộp cho tổ tuần tra. Tổ tuần tra thu giữ tang vật và đưa T cùng T1 về trụ sở làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 1455/KLGĐ-PC09 ngày 01.01.2021 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

-Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,3301 gam; là Methamphetamine.

-Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 1,1181 gam; là Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 78/CT-VKSTP-HS, ngày 28/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, đã truy tố bị cáo Phạm T, về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Kiểm sát viên đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật được hoàn lại sau giám định gồm:

-Gói nylon như mô tả tại mục II.1 và 0,1625 gam Methamphetamine mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1455/1.

-Gói nylon như mô tả tại mục II.2 và 0,6297 gam Methamphetamine mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1455/2.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 50/QĐ-VKSTP, ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong.

Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, Kiểm sát viên; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo Phạm T: bị cáo Phạm T biết hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng với bản tính xem thường pháp luật . Vào khoảng 20 giờ ngày 26.12.2020, T một mình đi đến khu vực bãi rác dừa thuộc khu phố 5, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong gặp Q (không rõ nhân thân, lai lịch) mua của Q 1.000.000 đồng ma túy đá. Q đưa cho T 03 gói ma túy dá. Nhận ma túy xong T cất giấu ma túy trong người đi đến Miếu Thanh Minh thuộc thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong để chơi. T gọi điện thoại cho Huỳnh Thị Ngọc T1 đến đón T. T đưa cho T1 01 giữ giúp 02 gói ma túy đá. Còn 01 gói ma túy T kẹp trong điện thoại và cầm trên tay. T điều khiển xe mô tô biển số 86B1-406.29 chở T1 đến đường hẻm quán cà phê MingHouse thuộc khu phố 5, thị trấn Liên Hương. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì T và T1 bị tổ tuần tra kiểm tra T thả 01 gói ma túy rớt xuống chân của T thì bị phát hiện, thu giữ toàn bộ tang vật chứng.

Hành vi cất giấu 1,4482 gam Methamphetamine của bị cáo Phạm T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: bị cáo Phạm T không có tình tiết tăng nặng; bị cáo Phạm T thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước chúng ta.

[4]. Về phần tang vật của vụ án: Tịch thu tiêu hủy -Gói nylon như mô tả tại mục II.1 và 0,1625 gam mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1455/1.

-Gói nylon như mô tả tại mục II.2 và 0,6297 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1455/2.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[6]. Đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

2. Tuyên bố: bị cáo Phạm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3. Xử phạt: bị cáo Phạm T 15 (mười lăm) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 26.12.2020.

4. Phần xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật được hoàn lại sau giám định gồm:

-Gói nylon như mô tả tại mục II.1 và 0,1625 gam mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1455/1.

-Gói nylon như mô tả tại mục II.2 và 0,6297 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1455/2.

(tang vật theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28 tháng 5 năm 2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong với Công an huyện Tuy Phong)

5. Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

 6.Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26 tháng 7 năm 2021).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Phạm V, bà Nguyễn Thị Ph có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 91/2021/HSST ngày 26/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;