Bản án 91/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 91/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 82/2021/HSST ngày 28 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh Ph, sinh năm 1981; tại Cà Mau; nơi cư trú: Số 26, Lâm Thành Mậu, khóm 5, phường 4 thành phố Cà Mau tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Huỳnh Thị Bé T; vợ:

Giáp Thị Mỹ T; con: 03 người (lớn nhất sinh năm 2002 nhỏ nhất sinh năm 2008); tiền án tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/5/2003 bị Chủ tịch UBND thành phố Cà Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chấp xong quyết định số 88/QĐ-CTUB ngày 09/5/2005; Ngày 23/7/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 09 tháng tù về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 11/8/2008, thi hành xong án phí tháng 7/2008; bị bắt tạm giam ngày 12/01/2021 đến nay; bị cáo bị tạm giam có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Hữu N sinh năm 1988; cư trú tại: Số 78A Nguyễn Trãi, khóm 2 phường 9 thành phố Cà Mau tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh Ph và Nguyễn Hữu N là bạn bè quen biết nhau từ trước. Khoảng tháng 6/2017 anh N lên mạng xã hội facebook (không nhớ tên tài khoản facebook) thấy đăng thông tin bán xe mô tô phân khối lớn có nguồn gốc từ Campuchia, không có giấy tờ hợp pháp. Anh N mua xe nên liên lạc với Ph và nói “muốn mua xe phân khối lớn có nguồn gốc từ Campuchia, không có giấy tờ, Ph có làm các thủ tục đăng ký xe theo quy định pháp luật được không”? Lúc này, Ph nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh N nên Ph đưa ra thông tin gian dối với anh N là Ph có quen biết người làm giấy tờ xe hợp pháp nhập lậu từ nước ngoài về Việt Nam thực tế Ph không có quen biết ai và cũng không làm được giấy tờ xe.

Ph thỏa thuận với anh N giá làm giấy tờ xe là 80.000.000 đồng bao gồm thuế trước bạ và các chi phí khác, thời gian một tháng Ph sẽ làm xong giấy tờ đăng ký xe cho anh N. Đồng thời Ph yêu cầu anh N gửi hình ảnh xe số máy số khung của xe qua Zalo của Ph để làm thủ tục đăng ký xe. Sau đó, anh N liên hệ qua điện thoại với người bán xe để mua xe mô tô 1.100 mã lực với giá 120.000.000 đồng và yêu cầu người bán xe chụp ảnh xe và cà số máy số khung xe gửi qua zalo cho anh N để gửi zalo cho Ph. Ph yêu cầu anh N đặt cọc trước 10.000.000 đồng, anh N đồng ý và đưa cho Ph 10.000.000 đồng tại quán cà phê Hội Ngộ thuộc phường 9 thành phố Cà Mau.

Khoảng tháng 7/2017, Ph gọi điện cho anh N nói dối đã làm xong giấy tờ xe và yêu cầu anh N đưa đủ tiền cho Ph để lấy giấy tờ xe về. Anh N đưa tiếp cho Ph 70.000.000 đồng tại công viên Hùng Vương phường 5 thành phố Cà Mau.

Tháng 8/2017, anh N gọi điện cho Ph yêu cầu Ph giao giấy tờ xe cho anh N. Ph yêu cầu anh N đưa 1.000.000 đồng để Ph đi thành phố Hồ Chí Minh lấy giấy xe. Anh N không đủ tiền ch đưa cho Ph 800.000 đồng. Vậy Ph đã chiếm đoạt của anh Nguyễn Hữu N tổng cộng 80.800.000 đồng để chi xài cá nhân rồi bỏ trốn.

Ngày 27/8/2018, anh N làm đơn tố giác đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau yêu cầu xử Nguyễn Thanh Ph theo quy định pháp luật. Ngày 06/9/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau chuyển đơn tố giác của anh N đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 10/01/2021, anh N giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau 01 “Biên nhận” đề ngày 16/12/2017 người viết Nguyễn Thanh Ph (đã lưu hồ sơ vụ án).

Tại bản kết luận giám định số: 111/GĐ-PC09 ngày 20 tháng 3 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luận: Chữ ký chữ viết trên BIÊN NHẬNngày 16/12/2017 (Ký hiệu A) so với chữ ký chữ viết trên TỜ TƯỜNG THUẬTngày 12/01/2021 họ tên Nguyễn Thanh Ph và TỜ TỰ KHAIngày 12/01/2021 họ tên Nguyễn Thanh Ph (Ký hiệu M1 và M2) là do cùng một người ký và viết ra.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Hữu N yêu cầu bị can Nguyễn Thanh Ph trả lại số tiền chiếm đoạt là 80.800.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố Nguyễn Thanh Ph về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Ph từ 03 năm đến 04 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo trả lại cho bị hại Nguyễn Hữu N số tiền 80.800.000 đồng.

Ý kiến của bị cáo: Thống nhất với cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát không tham gia tranh luận.

Ý kiến của bị hại: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là thấp đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau Điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh Ph khai nhận: Bị cáo biết Nguyễn Hữu N có nhu cầu mua xe mô tô phân khối lớn từ Campuchia không có giấy tờ hợp pháp. Anh N nhờ bị cáo làm giấy tờ xe hợp pháp theo quy định của pháp luật. Bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh N nên nói dối với anh N là bị cáo có quen biết người làm giấy tờ đăng ký xe hợp pháp và yêu cầu anh N đưa tiền cho bị cáo làm, nhưng thực tế bị cáo không quen biết ai và cũng không làm được giấy tờ đăng ký xe cho anh N. Từ tháng 6/2017 đến tháng 8/2017 bị cáo đã chiếm đoạt tiền của anh N tổng cộng 80.800.000 đồng sử dụng vào mục đích chi xài cá nhân và sau đó bỏ trốn.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, chiếm đoạt tài sản của bị hại trái pháp luật nên đã phạm vào tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo là có căn cứ.

[4] Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội do bị cáo Nguyễn Thanh Ph là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến tài sản của bị hại Nguyễn Hữu N trái pháp luật làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội ở địa phương. Bị cáo có đầy đủ nhận thức và biết rõ chiếm đoạt tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì muốn có tiền chi xài cá nhân mà bị cáo bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội.

Xét thân nhân của bị cáo là xấu: Ngày 29/5/2003 bị Chủ tịch UBND thành phố Cà Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 23/7/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 09 tháng tù về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 11/8/2008. Ngoài ra, tại Cơ quan điều tra bị cáo khai sau khi nhận tiền của bị hại bị cáo gửi 80.000.000 đồng cho Lê Công Phương tại thành phố Hồ Chí Minh thông qua tiệm vàng Kim Mỹ để làm giấy tờ xe cho bị hại. Tại phiên tòa bị cáo xác định lời khai tại Cơ quan điều tra là không đúng bị cáo khai vậy nhằm mục đích kéo dài thời gian điều tra vụ án. Xét thấy bị cáo khai gian dối đã gây khó khăn cho Cơ quan cảnh sát điều tra. Cho thấy bị cáo không có thái độ ăn năn hối cải nên cần phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc để răn đe phòng ngừa tội phạm.

Tại phiên tòa bị hại tranh luận cho rằng đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Xét thấy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”. Trong vụ án này bị cáo chiếm đoạt của bị hại 80.800.000 đồng Đại diện viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 03 năm đến 04 năm là có căn cứ. Trong quá trình nghị án Hội đồng xét xử có xem xét đến tính chất mức độ phạm tội nhân thân của bị cáo cũng như số tiền chiếm đoạt của bị hại để áp dụng mức hình phạt tương xứng phù hợp.

[5] Về tính tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã chiếm đoạt là 80.800.000 đồng bị cáo đồng ý. Xét yêu cầu của bị hại là chính đáng phù hợp nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 589 của Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 135 khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Ph phạm tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Ph 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 12/01/2021.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh Ph phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Hữu N số tiền là 80.800.000 đồng (Tám mươi triệu tám trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thi hành số tiền trên thì phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 đồng và phải chịu 4.040.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (chưa nộp).

Bị cáo bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 91/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:91/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;