Bản án 91/2020/HS-ST ngày 30/06/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 91/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử kín sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Nhật T; sinh năm: 1991, tại Long An; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: Ấp TTA, xã PL, huyện CG, tỉnh Long An); nghề nghiệp: Sửa xe máy; trình độ văn hóa (học vấn: 6/12); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn T1 và bà Huỳnh Thị T2; có vợ là Văn Bảo U và có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Bị hại: Em Đặng Phương L, sinh ngày: 08/01/2004; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: 61/14 AB, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 164 LT, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh). (vắng mặt)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Văn Thị P, sinh năm 1967; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: 61/14 An Bình, Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 164 LT, Phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh); là mẹ ruột của bị hại Đặng Phương L. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 06/9/2019, Võ Nhật T đến nhà của chị Văn Thị P tại số 164 LT, Phường S, Quận 8 để lấy đồ. Khi vào nhà, T thấy em Đặng Phương L (con gái của chị P) đang nằm trên ván gỗ nên T đến dùng tay sờ vào mông và âm đạo của L. Thấy L không phản kháng nên T tiếp tục dùng ngón tay đưa vào âm đạo của L, sau đó T cởi khóa quần của T rồi cầm dương vật, đồng thời dùng tay vén quần lót của L sang một bên, đưa dương vật vào âm đạo của L để giao cấu. Khi T thực hiện khoảng 02-03 phút thì chị P đi vào nhìn thấy, la lên và đẩy T ra. Sau đó, chị P đưa L đến Công an Phường 6, Quận 8 trình báo. Vụ việc được lập hồ sơ chuyển giao đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 điều tra, làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận: T và L có quan hệ họ hàng, mẹ của L là cô ruột của vợ T. Trước khi xảy ra vụ việc, T có nhắn tin hỏi thăm và nói nhớ L nhưng L không trả lời. Ngày 06/9/2019, T đến nhà L và thấy L đang nằm ngủ nên đến thực hiện hành vi giao cấu với L và L không phản kháng. Lúc giao cấu T không đe dọa hay ép buộc L. Bị hại Đặng Phương L khai khi T giao cấu với L thì L không bị T ép buộc hay đe dọa.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 166/TD.19 ngày 16/9/2019 của Trung Tâm Pháp Y-Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Màn trinh: Dãn rộng, không rách. Không thấy tinh trùng trong dịch phết âm đạo và vùng hậu môn. Có tế bào người nam:

+ Trong âm đạo, đủ cơ sở đối chiếu với mẫu ADN của đối tượng nam.

+ Tại vùng hậu môn, nhưng không đủ đối chiếu với mẫu ADN của đối tượng nam”

Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số 1.277A-2019/ADN ngày 04/10/2019 của Trung Tâm Pháp Y-Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “ADN trên nhiễm sắc thể Y của Võ Nhật T có hiện diện trong phết dịch âm đạo của Đặng Phương L”.

Ngày 17/12/2019, Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Võ Nhật T về hành vi “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Võ Nhật T đã khai nhận hành vi phạm tội trên và khai rằng đây là lần đầu tiên T giao cấu với L. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu bị cáo cầu bồi thường thiệt hại.

Vật chứng vụ án thu giữ: 01 (một) cái quần lót nữ màu trắng.

Tại bản Cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 31/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Võ Nhật T về tội “Giao cấu với nguời từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, theo khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Nhật T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Võ Nhật T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét. Về vật chứng thu giữ, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị hại Đặng Phương L và người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Văn Thị P (mẹ ruột bị hại) có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu Tòa án chi định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại. Xét việc bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa không làm ảnh hưởng đến quyền của bị hại, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án khi bị hại, người đại diện hợp pháp bị hại vắng mặt tại phiên tòa.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lòi khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 09 giờ ngày 06/9/2019, tại nhà số 164 LT, Phường s, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Võ Nhật T có hành vi dùng bộ phận sinh dục của mình xâm nhập vào bộ phận sinh dục của bị hại Đặng Phương L thì bị phát hiện. Thời điểm thực hiện hành vi, bị cáo đã đủ 18 tuổi và bị hại Đặng Phương L đã đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi.

[4] Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” như sau:

“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

[5] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Võ Nhật T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[7] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, trong quá trình điều ừa, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung, tại khoản 4 Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm ”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp, vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng vụ án: 01 (một) cái quần lót nữ màu trắng tạm giữ của bị hại và bị hại không có yêu cầu nhận lại, xét không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[10] Về trách nhiệm dân sự, do bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí hình sự: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Nhật T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Võ Nhật T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái quần lót nữ màu trắng.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 51/PNK ngày 11/3/2020).

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Võ Nhật T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 91/2020/HS-ST ngày 30/06/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:91/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;