Bản án 91/2020/HSST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 91/2020/HSST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 91/2020/HSST ngày 11/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng T - tên gọi khác: không; giới tính: Nam Sinh ngày 05/6/1978 tại huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1933 và và Nguyễn Thị , sinh năm 1936 cùng trú tại: thôn Đ xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái, có vợ Nguyễn Thị H, sinh 1980, trú tại xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái( đã ly hôn), có 02 con Nguyễn Thị H, sinh năm 1998 và Nguyễn Trọng T, sinh 2004 cùng cư trú tại xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái; nhân thân xấu: Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử 01 năm 06 tháng tù treo thời gian thử thách 03 năm về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 08/2015/HSST ngày 11/3/2015, tính đến nay đã được xóa án tích; tiền án: không; tiền sự: không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/7/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ ngày 23/7/2020, bị cáo đi xe khách từ nhà lên thành phố Lào Cai để kiếm việc làm. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày bị cáo xuống xe tại khu vực đầu cầu Kim Tân, để đi tìm mua ma túy về sử dụng. Bị cáo đi bộ từ đầu cầu Kim Tân đến tổ 03 phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai thì gặp một người phụ nữ đang đứng ven đường, bị cáo đi đến và hỏi “ chị có hàng bán không”, người phụ nữ trả lời “ ” và hỏi bị cáo “lấy bao nhiêu” bị cáo nói “ để cho em ba trăm” và bị cáo lấy trong người ra 300.000đ đưa cho người phụ nữ và người phụ nữ đưa cho bị cáo 01 túi nilon bên trong có chứa 06 gói ma túy được gói bằng giấy màu trắng, bị cáo cầm và cất vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc, khi đang đi tìm nơi để sử dụng ma túy thì bị Công an phường Bắc Cường phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Ngoài ra, còn tạm giữ của bị cáo số tiền 1.580.000đ (Một triệu năm trăm tám mươi ngàn đồng).

Biên bản mở niêm phong, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 27/7/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định: Niên phong vật chứng còn nguyên vẹn, đúng quy định. Tiến hành mở niêm phong bên trong là 06 gói giấy mầu trắng, cả 06 gói này đều chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của bị cáo ngày 23/7/2020 có khối lượng là 0,17( Không phẩy mười bẩy) gam; trích mẫu 0,05( Không phẩy không năm) gam để tiến hành giám định, số vật chứng còn lại là 0,12( Không phẩy mười hai) gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 159/GĐMT ngày 29/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,17( Không phẩy mười bẩy) gam chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của bị cáo ngày 23/7/2020 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai gửi đến giám định là loại ma túy Hêrôin (Heroine).

Cáo trạng số 85/CT- VKSTPLC ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Trọng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội: Bị cáo Nguyễn Trọng T có hành vi tàng trữ trái phép 0,17( Không phẩy mười bẩy) gam Hêrôin (Heroine) mục đích để sử dụng. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận tội, lời nhận tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Vì vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện chất ma túy, nên khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/7/2020 bị cáo Nguyễn Trọng T đi bộ từ đầu cầu Kim Tân đến khu vực tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai mua của một người phụ nữ không quen biết 06(sáu) gói Heroine với giá 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), bị cáo cho số ma túy mua được túi quần phía trước bên phải đang mặc, khi đang đi tìm chỗ để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phường Bắc Cường bắt quả tang và thu giữ toàn bộ ma túy.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có hiểu biết pháp luật, bị cáo biết rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,17( Không phẩy mười bẩy) gam Hêrôin (Heroine) mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử 01 năm 06 tháng tù treo thời gian thử thách 03 năm về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 08/2015/HSST ngày 11/3/2015, tính đến nay đã được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn không lấy làm bài học mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời lấy đó làm bài học cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi bị bắt, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử, xét thấy điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có khả năng để thi hành án nên không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền với đối bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 0,17 (Không phẩy mười bẩy) gam Hêrôin (Heroine và số tiền 1.580.000đ( Một triệu năm trăm tám mươi ngàn đồng).

Đi với 0,17 (Không phẩy mười bẩy) gam Hêrôin (Heroine); trích mẫu 0,05 (Không phẩy không năm) gam để tiến hành giám định, số vật chứng còn lại sau trích mẫu là 0,12 (Không phẩy mười hai) gam. Đây là chất ma túy nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với số tiền 1.580.000đ (Một triệu năm trăm tám mươi ngàn đồng) là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.Tuy nhiên, bị cáo còn phải thi hành án về khoản tiền án phí, nên cần tạm giữ số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) để đảm bảo công tác thi hành án. Số tiền còn lại 1.380.000đ (Một triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng) trả lại cho bị cáo là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đi với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai không điều tra không chứng minh rõ được.

[6] Do bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’. Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2020

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 0,12 (Không phẩy mười hai) gam Hêrôin (Heroine) được tái niêm phong bằng bì thư có sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, trên một mặt của bì thư có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ của Nguyễn Trọng T ngày 23/7/2020 tại tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai” .

Tm giữ của bị cáo số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) trong tổng số 1.580.000đ( Một triệu năm trăm tám mươi ngàn đồng) tiền Việt Nam để đảm bảo công tác thi hành án về khoản tiền án phí. Số tiền còn lại 1.380.000đ (Một triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng) tiền Việt Nam trả lại cho bị cáo Nguyễn Trọng T. (Vật chứng được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/9/2020)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Trọng T phải chịu 200.000đ( Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. "Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 91/2020/HSST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;