TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 91/2019/HSST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 114/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:
Vũ Thị Thảo H, sinh năm 1988 tại Gia Lai. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Số 06 B, Tổ 2, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Vũ Thành A, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1964. Cha và mẹ của bị cáo hiện trú tại Số 06 B, Tổ 2, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai .
Bị cáo có 02 anh, chị ruột; sinh năm 1984 và 1985. Bị cáo là con út trong gia đình Chồng (đã ly hôn): Hà Hải Đ, sinh năm 1985. Bị cáo có 02 con, sinh năm 2011 và năm 2016. Tiền án: 01 Tại bản án số 04/2016/HSST ngày 07/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, xử phạt 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Do bị cáo đang mang thai nên ngày 04/3/2016, được Tòa án nhân dân thành phố Pleiku ra Quyết định Hoãn thi hành án 12 tháng. Đến ngày 09/3/2017, bị cáo H có đơn xin hoãn thi hành án lần hai vì lý do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Đến ngày 04/6/2019, H đã tự nguyện vào chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Tiền sự: Không.
* Người chứng kiến:
- Anh Nguyễn Đại L, sinh năm 1989.
Địa chỉ: Tổ 9, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
- Anh Nguyễn Ngọc Duy T, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Cơ sở tư vấn và cai nghiện ma tuý tỉnh Gia Lai. Có đơn xin vắng mặt.
- Ông Lê Hùng, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Tổ 6, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Thị Thảo H là người có sử dụng ma túy đá. Khoảng 15 giờ ngày 25/4/2019, H gọi điện thoại cho một người phụ nữ tên An (không rõ họ tên, địa chỉ) mà H quen biết trước đó, để hỏi mua ma túy thì An đồng ý và hẹn gặp nhau để trao đổi mua bán ma túy tại khu vực ngã ba đường Tân Tiến - Quyết Tiến, thành phố Pleiku. Sau đó, H đón xe taxi (không rõ hãng xe và biển số xe) đến chỗ đã hẹn để gặp người phụ nữ tên An. Tại đây, H đã mua của An 01 gói ma túy, với số tiền 700.000 đồng, rồi H để số ma túy này vào trong túi xách rồi mang túi xách về nhà. Khoảng 16 giờ ngày 26/4/2019, Nguyễn Ngọc Duy T (sinh năm 1995, trú tại phường D, thành phố Pleiku) gọi điện thoại cho H hẹn đến nhà nghỉ để trả tiền mà T đã mượn của H trước đó. Khoảng 17 giờ ngày 26/4/2019, H đi xe taxi (không rõ hãng xe và biển số xe) mang theo túi xách bên trong có đựng ma túy đến phòng số 03 thuộc nhà nghỉ Mỹ Anh, Tổ 07, phường IaKring, thành phố Pleiku để gặp T. Tại đây, có cả bạn của T là Nguyễn Đại L (sinh năm 1989, trú tại Tổ 09, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai). Khi H, T, L đang ngồi nói chuyện thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố Pleiku phối hợp với Công an phường IaKring, thành phố Pleiku kiểm tra và phát hiện bắt quả tang Vũ Thị Thảo H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; thu giữ tang vật, gồm: 01 túi xách màu vàng chất liệu da, bên trong túi xách có 01 gói nilon chứa chất rắn dạng tỉnh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định); 01 điện thoại di động hiệu Samsung S8 màu đen (đã vỡ màn hình), số Imel 1: 354359087156354; Số Imel 2: 354360087156352, kèm sim số 0883579601(có dãy số 8401-1805-3311-6937-GD). Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị Thảo H khai nhận số ma túy trên là ma túy đá, do H mua rồi cất giấu với mục đích để sử dụng.
Qua giám định, tại bản Kết luận giám định số: 345/KLGĐ ngày 08-5-2019, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:“Chất màu trắng dạng tinh thể trong gói nilon, trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,1065 gam”.
Đối với chiếc điện thoại di động cùng sim số đã thu giữ là của bị cáo Vũ Thị Thảo H. Qua điều tra, xác định: Bị cáo H đã sử dụng chiếc điện thoại cùng sim số này để liên lạc mua ma túy và chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong 01 phong bì công văn ghi số: 345/PC09, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai và 01 túi xách màu vàng chất liệu da. Cơ quan điều tra chuyển toàn bộ vật chứng trên theo hồ sơ vụ án để xử lý.
Tại Bản cáo trạng số: 117/CT-VKS ngày 08/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Vũ Thị Thảo H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
* Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo H đã bị kết án về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, lại tiếp tục phạm tội nghiêm trọng. Do đó, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đó là: “Tái phạm”.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của bản thân và các tình tiết có liên quan nên bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo”.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị tuyên bố bị cáo Vũ Thị Thảo H phạm tội:
“ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
Về vật chứng của vụ án: 01 túi xách màu vàng chất liệu da; 01 chiếc điện thoại hiệu SamSung S8 màu đen (đã vỡ màn hình), số I mel 1: 354359087156354; Số Imel 2: 354360087156352, kèm sim số 0883.579601 (có dãy số 8401-1805- 3311-6937-GD) bị cáo H đã sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc mua chất ma túy. Đây là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước;
- 01 bì công văn ghi số: 345/PC09 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai là chất ma túy nên tịch thu tiêu hủy.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” như cáo trạng đã nêu, nhận thấy hành vi đó của mình là sai trái, vi phạm pháp luật; bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2 ] Lời khai của bị cáo và người chứng kiến trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 26/4/2019, tại nhà nghỉ Mỹ Anh, Tổ 7, phường IaKring, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, khi Vũ Thị Thảo H đang có hành vi tàng trữ 1,1065 gam chất ma túy loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật.
[3] Hành vi mua, cất giấu 1,1065 gam chất ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng, do bị cáo thực hiện như trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội, đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố.
Bị cáo là người có đủ năng lực để nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khoẻ con người và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, việc sử dụng ma túy là nguyên nhân gián tiếp làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm. Bị cáo có tiền án về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị xử phạt 24 tháng tù và được Tòa án nhân dân thành phố Pleiku cho hoãn thi hành án 02 lần do mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi nhưng bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi tương tự trong thời gian được hoãn chấp hành án. Do vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]Về tình tiết tăng nặng: bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “ Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo được áp dụng tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
[6] Về tổng hợp hình phạt: Do bị cáo vẫn chưa chấp hành hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 04/2016/HSST ngày 07/1/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, do vậy Hội đồng xét xử sẽ tổng hợp hình phạt chung tại bản án này.
[7] Về vật chứng vụ án:
- 01 túi xách màu vàng chất liệu da bị cáo sử dụng để cất giấu ma túy; 01 chiếc điện thoại hiệu SamSung S8 màu đen (đã vỡ màn hình), số I mel 1: 354359087156354; Số Imel 2: 354360087156352, kèm sim số 0883.579601 (có dãy số 8401-1805-3311-6937-GD) bị cáo H đã sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc mua chất ma túy. Đây là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước;
- 01 bì công văn ghi số: 345/PC09 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai là chất ma túy nên tịch thu tiêu hủy.
[8] Về hình phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung do bị cáo không có tài sản riêng.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Về tội danh và hình phạt
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Vũ Thị Thảo H phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;
Xử phạt bị cáo Vũ Thị Thảo H 18 ( mười tám) tháng tù;
Tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 04/2016/HSST ngày 07/1/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 42 ( bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/6/2019;
Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 túi xách màu vàng chất liệu da (đã qua sử dụng, cũ) và 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu SamSung S8 màu đen kèm sim số 0883.579601 (ngoài sim có dãy số 8401-1805-3311-6937-GD), số Imel 1: 354359087156354; Số Imel 2: 354360087156352 ( điện thoại đã vỡ màn hình trước, vỡ nắp sau lưng, cũ).
- Tịch thu tiêu huỷ 01 bì công văn ghi số: 345/PC09 (đề ngày 08/5/2019) có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2019 giữa Công an thành phố Pleiku và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;
Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 91/2019/HSST ngày 30/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 91/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về