Bản án 90/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 90/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 94/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021. Về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ph, sinh năm 1996 (Có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ cư trú: KP 2, phường MB, thành phố PRTC, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Anh Võ Văn L, sinh năm 1995 (Vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp TT, xã HM, huyện CN, tỉnh Cà Mau

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 – 3– 2021 nguyên đơn chị Lê Thị Ph trình bày:

 Về hôn nhân: Chị và anh Võ Văn L quen biết và sống với nhau như vợ chồng từ năm 2011 đến năm 2015 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ Bình, thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 93/2015 quyển số 01/2014 ngày 01/12/2015. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc cùng nhau chăm lo xây dựng gia đình nhưng dần về sau do bất đồng quan điểm, vợ chồng chị thường hay bất hòa và xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Hiện chị và anh L không còn sống chung với nhau nữa. Từ những vấn đề trên dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống vợ chồng không thể kéo dài nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Võ Văn L.

Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị và anh L có 01 con chung tên Võ Gia B, sinh ngày 07/8/2012, sau khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tại đơn xin vắng mặt ngày 13/4/2021 chị Ph yêu cầu giao con cho anh L nuôi dưỡng, vì chị hiện không đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Võ Văn L, Tòa án đã tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và triệu tập anh L để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng anh L vắng mặt không lý do. Chị Lê Thị Ph có đơn xin vắng mặt đề ngày 13/4/2021.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Lê Thị Ph được ly hôn với anh Võ Văn L; Giao con chung tên Võ Gia Bảo cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng; án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Ph phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa chị Lê Thị Ph và anh Võ Văn L là tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Võ Văn L có địa chỉ tại Ấp TT, xã HM, huyện CN, tỉnh Cà Mau. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã triệu tập anh L hợp lệ để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng anh L vắng mặt không lý do, chị Ph có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xét xử vắng mặt đối với chị Ph, anh L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Ph và anh Võ Văn L chung sống với nhau từ năm 2011 đến năm 2015 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ Bình, thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 93/2015 ngày 01/12/2015. Do đó, hôn nhân của chị Ph và anh L là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của chị Ph và anh L thực sự có xảy ra trong thời gian dài nhưng không thể hàn gắn được, chị Ph và anh L đã sống ly thân với nhau. Do hôn nhân không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Ph yêu cầu ly hôn với anh L. Anh L đã được Tòa án thông báo về việc chị Ph yêu cầu ly hôn nhưng anh L không đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải, không tham gia phiên tòa và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu xin ly hôn của chị Ph, cho thấy anh L không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn giữa chị Ph và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Ph đối với anh L là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Tính đến ngày xét xử sơ thẩm cháu Võ Gia B đã trên 07 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đìnhVợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuôi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Tại biên bản ghi nguyện vọng của cháu Võ Gia B vào ngày 05/5/2021 thì cháu Bảo có nguyện vọng được sống với cha là anh Võ Văn L. Đối với anh L không có ý kiến gì về con chung. Xét thấy từ khi ly thân cho đến ngày xét xử cháu Võ Gia Bảo do anh L trực tiếp nuôi dưỡng, anh L có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Chị Ph yêu cầu giao con cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng vì chị Ph không đủ điều kiện để nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của chị Ph giao con chung Võ Gia B cho anh L tiếp tục nuôi là phù hợp. Do đó, giao con chung Võ Gia B cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng. Chị Ph có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh L vắng mặt tại phiên tòa, anh L không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Nếu sau này anh L có yêu cầu thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy định pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Ph xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với anh L vắng mặt tại phiên tòa, anh L không có ý kiến gì về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Nếu sau này giữa các bên đương sự có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy định pháp luật.

[5] Án phí hôn nhan và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Ph phải chịu 300.000 đồng, theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; 35; 39; 147, 227, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 9, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lê Thị Ph được ly hôn với anh Võ Văn L.

Về con chung: Giao con chung tên Võ Gia B, sinh ngày 07/8/2012 cho anh Võ Văn L tiếp tục nuôi dưỡng. Chị Lê Thị Ph không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Ph phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, đối trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006173 ngày 08/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước chị Ph đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh Võ Văn L không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp Bản án (Quyết định) được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Lê Thị Ph và anh Võ Văn L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 90/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:90/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;