TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 90/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 05 tháng 8 năm 1983, tại xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12 Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn L(đã chết) và bà Từ Thị H; Gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Nhân thân: Ngày 03-8-2010, bị Công an huyện Hưng Hà xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 19-9-2019, đến ngày 22-9-2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình - được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.
- Những người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1976, cư trú tại:Thôn N, xã L, huyện H, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)
2. Ông Đinh Văn T, sinh năm 1968, cư trú tại: Thôn B, xã L, huyện H, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 45 phút ngày 19-9-2019, tại khu vực nghĩa trang thuộc địa phận thôn C, xã L, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Tổ công tác Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T, sinh năm 1983, trú tại thôn Đ, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình có hành vi cất giấu tại lòng bàn tay trái 01 gói nilon trong suốt, khi tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì T thả từ 01 gói nilon nói trên xuống đất ngay cạnh chân T đứng. Tổ công tác yêu cầu T nhặt gói nilon lên, mở kiểm tra bên trong có 01 gói giấy tráng kim màu trắng, bên trong gói giấy tráng kim có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục. T khai nhận gói trên là ma túy (Heroin), mục đích tàng trữ để sử dụng, nguồn gốc số ma túy là do T góp 100.000 đồng với người thanh niên khoảng 20 tuổi (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực bưu điện thị trấn H mua để cùng sử dụng (bản thân T là người nghiện ma túy). Gói ma túy trên người thanh niên này mua của ai, ở đâu thì T không biết. Cơ quan Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành niêm phong số ma túy trên.
Tại Bản kết luận giám định số 372/KLGĐ - PC09 ngày 20-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Mẫu vật cần giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1281 gam (không phẩy một nghìn hai trăm tám mươi mốt gam). Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.”
Bản cáo trạng số 93/CT-VKSHH ngày 13-11-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19-9-2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ gồm: Toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Nguyễn Văn T là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 372/KLGĐ - PC09 ngày 20-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu do Công an huyện Hưng Hà lập ngày 19-9-2019; Bản kết luận giám định số 372/KLGĐ - PC09 ngày 20-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T1 và anh Đinh Văn T cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 45 phút ngày 19-9-2019, tại khu vực nghĩa trang thuộc địa phận thôn C, xã L, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ 0,1281 gam ma túy, loại Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Điều luật quy định như sau:
Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...;
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo:
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Nguyễn Văn T thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bị cáo có nhân thân xấu; bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng do mắc nghiện ma túy bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật.
Từ các nhận xét trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
[5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về nguồn gốc 0,1281 gam ma túy, loại Heroine (Hêrôin), bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận: Bị cáo góp 100.000 đồng với một người thanh niên khoảng 20 tuổi (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực bưu điện thị trấn Hưng Nhân để mua ma túy cùng sử dụng. Gói ma túy người thanh niên này mua của ai, ở đâu bị cáo không biết. Ngoài lời khai của bị cáo T, không có tài liệu, chứng cứ nào để xác định người thanh niên cùng mua ma túy với bị cáo nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án là phù hợp quy định của pháp luật.
[7] Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thu giữ, quản lý của bị cáo Nguyễn Văn T, sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 372/KLGĐ - PC09 ngày 20-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu để tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo cần tuyên trả lại cho bị cáo.
[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01(một) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19-9-2019.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ 0,0835 gam (Không phẩy không nghìn tám trăm ba mươi lăm gam) ma túy còn lại sau khi gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Văn T được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 372/KLGĐ-PC09, ngày 20-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.
Trả lại bị cáo T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng.
(Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14-11-2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 90/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 90/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về