Bản án 90/2018/HSST ngày 26/06/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 90/2018/HSST NGÀY 26/06/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 91/2018/HSST ngày 30/5/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2018/QĐXXST - HS ngày 12/6/2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thế H, sinh năm 1965 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn L, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 5/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Thế C và bà: Lê Thị C; Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1966; Con: có 02, con lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1989.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 12/7/1989 Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm tuyên phạt Nguyễn Thế H 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm. (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/3/2018, hiện bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

2. Phan Văn T, sinh năm 1962 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã D, huyện G, Thành phố Hà Nội; Nơi ở: Phố khối N, xã N, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Phan Văn H và bà: Lê Thị H; Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1964; Con: có 03, con lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1992.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: không có tiền án, tiền sự đã được xóa.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 14/3/2018 đến ngày 16/3/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1977 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn L, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Văn L và bà: Nguyễn Thị L; Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1981; Con: có 03, con lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: không có tiền án, tiền sự đã được xóa.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 14/3/2018 đến ngày 16/3/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1966 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 17 T, Phường Ô, quận Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Thanh H và bà: Trần Thị Minh T; Vợ: Trần Thị H, sinh năm 1977; Con: có 02, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: không có tiền án, tiền sự đã được xóa.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 14/3/2018 đến ngày 16/3/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Thế T, sinh năm 1947 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn L, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Thế C và bà: Nguyễn Thị C; Vợ: Nguyễn Thị C; Con: có 05, lớn nhất sinh năm 1971, nhỏ nhất sinh năm 1978.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/06/1980 bị công an huyện Đông Anh lập danh chỉ bản về hành vi trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 14/3/2018 đến ngày 16/3/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

6. Phạm Văn K, sinh năm 1974 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn L, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 4/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Phạm Văn P và bà: Nguyễn Thị L; Vợ: Phạm Phương T, sinh năm 1976; Con: có 03, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2005.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/6/2008  Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội Đánh Bạc, thời gian thử thách là 48 tháng.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 14/3/2018 đến ngày 16/3/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1]. Hồi 00h30 phút ngày 14/3/2018, Công an huyện Đông Anh làm nhiệm vụ tại thôn L, xã T, huyện Đ phát hiện, bắt quả tang tại nhà Nguyễn Thế H, sinh năm 1965; Trú tại: Thôn L, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội các đối tượng gồm: Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K và   Nguyễn Thế T đang đánh bạc bằng hình thức đánh chắn ăn tiền.

[2]. Vật chứng tạm giữ :

- Tại chiếu bạc: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 5.820.000 đồng (trong đó có 320.000 đồng trong vỏ hộp sữa); 03 bộ bài chắn, mỗi bộ 100 quân; 03 chiếc đĩa bằng sứ;

- Của Nguyễn Tuấn H: 01 chiếc điện thoại Mobistar kèm sim số  01257743767; 01 điện thoại HTC kèm sim số 0968078841.

- Của Nguyễn Ngọc V: 01 chiếc điện thoại ITEL, kèm sim số 0902156473; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 520.000 đồng.

- Của Phan Văn T: 01 chiếc điện thoại Iphone 6, kèm sim số 0914367363; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 6.300.000 đồng.

- Của Nguyễn Thế T: 01 giấy chứng nhận thương binh số 217.T/BĐ mang tên Nguyễn Thế T, do sở lao động thương binh và xã hội Thành phố Hà Nội cấp ngày 14/8/2017.

- Của Nguyễn Thế H: 01 chiếu nhựa màu vàng; 01 vỏ hộp sữa bằng kim loại; 01 điện thoại Iphone 6, kèm sim số 0989889323; 01 phiếu theo dõi điều trị tia xạ; 01 giấy ra viện; 01 giấy hẹn khám lại; 01 giấy chuyển tuyến; 01 phiếu khám bệnh; 05 phiếu thu tiền của Bệnh viện ung bướu Hà Nội đều mang tên Nguyễn Thế H.

[3]. Mở rộng vụ án Cơ quan Điều tra làm rõ Phạm Văn K tham gia đánh bạc tại nhà Nguyễn Thế H, khi Cơ quan Công an Đ bắt quả tang thì Phạm Văn K chạy thoát.

Tại Cơ quan Điều tra các bị cáo khai nhận: Do Nguyễn Thế H bị ung thư phổi, nhưng điều trị tại nhà, nên bạn bè và người thân đến thăm hỏi, động viên. Khoảng 20h00’ ngày 13/3/2018, Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K và anh Nguyễn Thế L đến nhà Nguyễn Thế H chơi. Thấy có nhiều người nên Nguyễn Thế H đã khởi xướng việc đánh bạc, hình thức đánh chắn sát phạt bằng tiền, các bị cáo Phan Văn T, Nguyễn Tuấn  H, Nguyễn Ngọc V và Phạm Văn K đều đồng ý. Sau đó, Nguyễn Thế H đến cửa hàng chị Nguyễn Thị Ư, sinh năm 1974 trú tại: thôn Lễ P, xã Tiên D, huyện Đ, mua 03 bộ bài chắn mang về nhà, rồi lấy 03 chiếc đĩa bằng sứ và trải chiếu xuống nền phòng ngủ tầng hai để các bị cáo đánh bạc tại nhà của mình. Các bị cáo thống nhất hình thức đánh chắn và mức sát phạt: Ai ù, thu tiền của ba người còn lại. Ù xuông được 40.000 đồng, dịch 20.000 đồng. Nếu người nào ù đại cước sắc (gồm các cước bạch định, tám đỏ, kính tứ chi, thập thành, bạc thủ trì) thì bỏ 40.000 đồng vào vỏ hộp sữa bằng kim loại để trên chiếu bạc để trả tiền hồ cho Nguyễn Thế H.

Đến khoảng 23h00’ cùng ngày, Nguyễn Thế T đến nhà Nguyễn Thế H chơi và lên phòng ngủ tầng hai xem Phan Văn T, Nguyễn Tuấn  H, Nguyễn Ngọc V và Phạm Văn K đánh bạc. Sau đó, Nguyễn Thế H nhờ Nguyễn Thế T chia bài để mọi người đánh bạc một vài ván, Nguyễn Thế T đồng ý. Đến khoảng 00h30’ ngày 14/3/2018, khi các bị cáo Phan Văn T, Nguyễn Tuấn  H, Nguyễn Ngọc V và Phạm Văn K đang đánh bạc thì bị Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang.

[4]. Về số tiền sử dụng đánh bạc: Nguyễn Ngọc V khai mang theo 2.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt đã thắng khoảng 600.000 đồng. Nguyễn Tuấn H khai  mang theo khoảng 2.100.000 đồng sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt thua khoảng 1.440.000 đồng. Phạm Văn K khai mang  220.000 đồng sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt thì hòa tiền. Phan Văn T mang theo 8.000.000 đồng, bỏ ra 1.700.000 đồng để đánh bạc, còn   số tiền 6.300.000 đồng là để trả tiền mua hàng sáng ngày 14/3/2018, không sử dụng đánh bạc. Khi bị bắt thì thắng khoảng 1.000.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền các bị cáo sử dụng để tham gia đánh bạc là 6.560.000 đồng. Nguyễn Thế H không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng có hành vi chuẩn bị các công cụ, phương tiện để các con bạc đánh bạc tại nhà của mình nhằm mục đích thu lời bất chính (đã thu tiền hồ) 320.000 đồng.

[5]. Anh Nguyễn Văn T, Nguyễn Thế L và anh Nguyễn Thế P có mặt nhưng không tham gia đánh bạc; Chị Nguyễn Thị Ư, khi bán 03 bộ bài chắn cho Nguyễn Thế H, không biết mục đích Nguyễn Thế H sử dụng để đánh bạc.

[6]. Tại bản Cáo trạng số 86/CT - VKS ngày 28/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thế H, Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K và Nguyễn Thế T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong phần tranh luận tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và kết luận các bị cáo: Nguyễn Thế H, Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K và Nguyễn Thế T phạm tội: “Đánh bạc” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt:

- Nguyễn Thế H từ 08 đến 10 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng.

- Phạm Văn K từ 08 đến 10 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt:

- Nguyễn Ngọc V từ 06 đến 08 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng

- Nguyễn Tuấn H từ 06 đến 08 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng

4. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm s, điểm o khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt:

- Nguyễn Thế T từ 06 đến 08 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng.

5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm i, điểm s, điểm x khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt:

- Phan Văn T từ 06 đến 08 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng.

6. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

7. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chiếu; 01 vỏ hộp sữa bằng kim loại; 03 bộ bài chắn và 03 đĩa sứ.

8. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 6.560.000 đồng.

[7]. Tại Cơ quan Điều tra, cũng như tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thế H, Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K và Nguyễn Thế T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được, không kêu oan và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho mình một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong khoảng thời gian từ 20h00’ đến 00h00’ngày 13/3/2018, tại nhà của Nguyễn Thế Hoa có địa chỉ tại thôn L, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, các bị cáo Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K, Nguyễn Thế T đã thực hiện hành vi đánh “Chắn” nhằm mục đích sát phạt nhau bằng tiền. Khi tham gia đánh bạc Nguyễn Ngọc V mang theo 2.000.000 đồng sử dụng đánh bạc; Nguyễn Tuấn H mang theo khoảng 2.100.000 đồng sử dụng đánh bạc; Phan Văn K mang 220.000 đồng sử dụng đánh bạc. Phan Văn T mang theo 1.700.000 đồng để đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 6.560.000 đồng. Nguyễn Thế H không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng có hành vi chuẩn bị các công cụ, phương tiện để các con bạc đánh bạc tại nhà của mình nhằm mục đích thu lời bất chính (đã thu tiền hồ) 320.000 đồng, có dấu hiệu của tội “Gá bạc” nhưng xét thấy tổng số tiền các bị cáo tham gia đánh bạc là 6.560.000 đồng/1 chiếu bạc chỉ có 5 người tham gia.

Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2010/HĐTP-TANDTC ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì hành vi của Nguyễn Thế Hoa chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Gá bạc”, nhưng đã đồng phạm với các bị cáo khác trong vụ án về tội “Đánh bạc”.

Như vậy các bị cáo Nguyễn Thế H, Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K, Nguyễn Thế T đã phạm tội” Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Các bị cáo Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, phạm tội có mức độ và phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Bị cáo Nguyễn Thế T khi phạm tội đã trên 70 tuổi, bản thân bị cáo là thương binh.

Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm o khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Bị cáo Phan Văn T có bố đẻ là ông Phan Văn H là liệt sỹ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Bị cáo Nguyễn Thế H mắc bệnh hiểm nghèo, hiện nay đang thường xuyên phải điều trị về bệnh Ung thư phổi tại Bệnh viện U bướu Hà Nội. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Bị cáo Phạm Văn K có bố là ông Phạm Văn P được Nhà nước tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng nhì, bản thân bị cáo đã tham gia quân ngũ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Tất cả các bị cáo không có tình tiêt tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy:

Các bị cáo Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Phạm Văn K, Nguyễn Thế H, Nguyễn Ngọc V và Nguyễn Thế T có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tất cả các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng.

Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 và hướng dẫn tại mục a và mục b8 khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Toà án nhân dân Tối cao. Xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội với thời gian thử thách nhất định dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo cũng như có tác dụng phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy các bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

-  04 chiếc điện thoại di động cùng các giấy tờ thu giữ của các bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 23/4/2018, Cơ quan Điều tra Quyết định xử lý vật chứng và trả lại cho các bị cáo là có căn cứ phù hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 chiếc chiếu; 01 vỏ hộp sữa bằng kim loại; 03 bộ bài chắn và 03 đĩa sứ là công cụ, phương tiện các bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Số tiền 6.560.000 đồng các bị cáo đã sử dụng để đánh bạc cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6]. Anh Nguyễn Văn T, Nguyễn Thế L và anh Nguyễn Thế P có mặt nhưng không tham gia đánh bạc; Chị Nguyễn Thị Ư, khi bán 03 bộ bài chắn cho Nguyễn Thế H, không biết mục đích Nguyễn Thế H sử dụng để đánh bạc. Do vậy Cơ quan Điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

[7] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thế H, Phan Văn T, Nguyễn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Phạm Văn K, Nguyễn Thế T đã phạm tội “Đánh bạc”

2. Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng đối với Nguyễn Thế H và Phạm Văn K.

- Khoản 1 Điều 321; điểm o, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng đối với Nguyễn Thế T.

- Khoản 1 Điều 321; Điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng đối với Nguyễn Ngọc V, Nguyễn Tuấn H.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, điểm s, điểm x khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng đối với Phan Văn T.

- Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

3. Xử phạt:

- Nguyễn Thế H 08 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Phạm Văn K 07 (bảy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Nguyễn Ngọc V 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Nguyễn Thế T 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

- PhanVăn T 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện Đ, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Nguyễn Tuấn H 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân phường Ô, quận Đ, thành phố Hà Nội quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 03 bộ bài chắn; 03 chiếc đĩa sứ màu trắng; 01 chiếu nhựa và 01 vỏ hộp sữa “OLDLAC” bằng kim loại, theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 31/5/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

- Tịch thu nộp ngân sác Nhà nước: 6.560.000 (sáu triệu, năm trăm sáu mươi nghìn) đồng theo Giấy ủy nhiệm chi điện tử số 59 lập ngày 31/5/2018 tại Kho bạc Nhà nước huyện Đông Anh.

Án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 90/2018/HSST ngày 26/06/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:90/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;