Bản án 90/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 90/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2017; Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V H, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 85/2017/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2017, đối với bị cáo sau:

1. Họ và tên: Giàng A H; Sinh năm 1992; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam;

Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không;

Hộ khẩu thường trú: Bản L X, xã L L, huyện V H, tỉnh Sơn La; Trình độ văn hoá:5/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Con ông Giàng A C và bà Tráng Thị M; Bị cáo có vợlà Tráng Thị S, sinh năm 1990 và 05 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2017 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Nguyn Đình Ch; Tên gọi khác; Nguyễn Văn Ch; Sinh năm 1980.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không; Hộ khẩu thường trú: Thôn Ph M, xã T Ph, huyện Th T, thành phố Hà Nội. Trìnhđộ văn hoá: 3/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Con ông: Nguyễn Văn M (đã chết), con bàLê Thị O. Bị cáo có vợ là Đinh Thị L, sinh năm 1975 và 01 con (đã chết).

Tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Tại bản án số 27/HSST ngày 25/6/1999 Tòa án nhân dân huyện Th T, tỉnh H T (nay là TP H N) xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội  Trộm cắp tài sản.

+ Tại bản án số 01/HSST ngày 31/01/2000 Tòa án nhân dân huyện Th T, tỉnh H T (nay là TP HN) xử phạt 15 tháng tù về tội  Trộm  cắp  tài  sản, tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù tại bản án số 27/HSST ngày 25/6/1999 của Tòa án nhân dân huyện Th T, tỉnh H T, buộc phải chịu chung hình phạt 27 tháng tù.

+ Tại bản án số 375/HSST ngày 31/5/2004 Tòa án nhân dân TP H N xử phạt 07 năm tù về tội  Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Tại bản án số 21/HSST ngày 07/12/2012 Tòa án nhân dân huyện Th T, TP H N xử phạt 30 tháng tù về tội  Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2017. Có mặt tại phiên toà.

* Những người có QLNV liên quan:

+ Bà Đinh Thị M và ông Nguyễn Văn N; địa chỉ: Thôn B Đ, xã Tr Th, huyện PhX, thành phố H N. Có mặt tại phiên toà.

+ Ông Đỗ Bá Ch; địa chỉ: Thôn V L, xã H V, huyện Th T, H N. Vắng mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng: ông Hoàng Anh T, địa chỉ: Bản B Nh 2, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên toà.

* Người phiên dịch: Ông Sồng A P, địa chỉ: Tổ 10 thị trấn M Ch, huyện M Ch, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Các bị cáo Giàng A H và Nguyễn Đình Ch bị Viện kiểm sát nhân dân huyện VHtruy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 05 giờ 00 phút, ngày 16/5/2017, tại bản C Ch, xã L L, huyện V H, tỉnh S La.

Tổ công tác công an huyện V H kiểm tra phát hiện Giàng A H và Nguyễn Đình Ch có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Giàng A H và Nguyễn Đình Chbị dẫn giải về Cơ quan điều tra Công an huyện V H để điều tra, xử lý.

Tiến hành kiểm tra, phát hiện Nguyễn Đình Ch cất giấu trong hậu môn 01 gói bên ngoài bọc bằng bao cao su, bên trong là lớp băng dính màu đen, tiếp đến là lớp nilon màu trắng, trong cùng chứa chất bột màu trắng, Giàng A H và Nguyễn Đình Ch khai nhận đó là gói Hêrôin mà H vừa mua hộ Ch với giá 27.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra tạm giữ của Nguyễn Đình Ch 400.000 đồng, 01 chiếc điện thoạidi động nhãn hiệu Nokia 130 vỏ màu đen, bên trong đựng hai sim Viettel có số t huê bao là 0984.934.609 và 0983.034.621; 01 thẻ sử dụng Methadone mang tên Nguyễn Đình Ch. Tạm giữ của Giàng A H gồm: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave BKS 29Y7 –  032.21 số máy 6192609, số khung 261648 đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A H số 040154014594, hạng A1do Sở giao thông vận tải tỉnh Sơn La cấp ngày 29/12/2015; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu xanh trắng, bên trong đựng một sim Viettel có số thuê bao là 01632.092.805 và400.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận: Nguyễn Đình Ch mắc nghiện chất ma túy, quen biết Giàng A H từ trước. Khoảng 16 giờ ngày 15/5/2017 Ch gọi điện nhờ H mua ma túy hộ. H đồng ý và hẹn Ch lên nhà H ở xã L L, huyện V H, Sơn La để giao dịch. Ch mang theo 25.600.000 đồng, bắt xe khách từ H N lên V H. Đến khoảng 01 giờ 00 ngày 16/5/2017 thì đến địa phận bản L L, liền gọi điện cho H ra đón. Vào nhàH, Ch nói nhờ H mua hộ 27.000.000 đồng Hêrôin. H gọi điện thoại cho chú họ là Giàng A Ch ở bản L X, mang Hêrôin đến đưa cho H, H lấy gói Hêrôin đưa cho Ch. Ch cầm gói Hêrôin mở ra, lấy một ít sử dụng. Sau đó, Ch đưa cho H 25.200.000 đồng, nói rằng nợ lại 1.800.000 đồng. Ch nói với H là trừ vào tiền cầm cố xe máy  BKS 29Y7032.21. H cầm tiền đi trả cho Ch, được Ch trả công 400.000 đồng. Trong khi H đi trả tiền, Ch lấy gói ma túy được gói bằng nilon màu xanh cho vào 01 túi nilon màu trắng, dùng băng dính đen quấn bên ngoài rồi cho vào một chiếc bao cao su, sau đó tự tay nhét vào hậu môn của mình. H quay lại chở Ch ra Quốc Lộ 6 bắt xe về nhà. Khi H và Ch đang đứng chờ xe tại địa phận bản C Ch, xã L L thì bị phát hiện bắt giữ.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đình Ch và Giàng A H cũng tự khai ra cùng nhau 3lần giao dịch mua bán Hêrôin, cụ thể như sau:

+ Lần thứ nhất: Khoảng giữa tháng 4 năm 2017, Ch gọi điện hẹn mua ma túy của H. Ch đi xe khách đến ngã ba bản L L thì H đang đứng chờ. Sau đó, H đưa Ch đến bản L X. H bảo Ch đứng đợi. Còn H đến nhà Giàng A Ch, ở bản L X mua một gói Hêrôin với giá 5.000.000 đồng. Ch nhận Hêrôin, trả tiền H 5.000.000 đồng. H cầm tiền về cho Ch, được Ch trả công 200.000 đồng.

+ Lần thứ hai: Sau đó khoảng 10 ngày, vào khoảng cuối tháng 4 năm 2017, Ch lại gọi điện hẹn mua ma túy của H. H lại mang xe máy ra đón Ch ở ngã 3 bản L L, rồi cùng đi vào bản L X. H bảo Ch đứng đợi, sau đó H lại vào nhà Giàng A Ch, mua một gói Hêrôin với giá 7.000.000 đồng. H mang về đưa cho Ch, Ch trả tiền, nhận ma túy. H lại mang tiền cho Giàng A Ch và được trả công 200.000 đồng.

+ Lần thứ 3: Sau đó khoảng 10 ngày, đầu tháng 5 năm 2017, Ch đi xe máy BKS 29Y7 –  032.21 lên bản L L và gọi điện để H ra đón. H đi xe máy ra đón Ch vào nhà. Ch nhờ H đi mua giúp 12.000.000 đồng Hêrôin. H gọi điện cho Giàng A Ch mang ma túy đến đưa cho H. Ch trả trước cho H 10.400.000 đổng, nợ lại 1.600.000 đồng, Ch lại trả công cho H 200.000 đồng. Do vậy, Ch đã gán lại xe máy BKS 29Y7 –  032.21 và hứa sẽ trả nợ và trả công cho H 500.000 đồng.

Cả 3 lần cùng nhau giao dịch mua bán ma túy, Ch đều đã mang Hêrôin về sử dụng cho bản thân hết. Giàng A H cũng chi tiêu hết số tiền được trả công.

Tại Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh gói bột màu trắng nghi là Hêrôin thu của Nguyễn Đình Ch có trọng lượng 21,87 gam, lấy 1,14 gam làm mẫu trưng cầu giám định chất ma túy, kí hiệu “CH”.

Kết luận giám định số 514/KLMT ngày 19/5/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận "Mẫu gửi giám định ký hiệu “CH” là chất ma túy, loại chất Hêrôin. Trọng lượng của mẫu gửi giám định “CH” là 1,14 gam. Trọng lượng của chất ma túy thu giữ là 21,87 gam, loại chất Hêrôin" .

Quá trình điều tra, xác minh chiếc xe máy nhãn hiệu  Honda BKS 29Y7 –  032.21 có đăng ký mang tên Đinh Thị M, địa chỉ: Thôn B Đ, xã Tr Th, huyện Ph X, thành phố Hà Nội, được chồng là Nguyễn Văn Ng, cùng địa chỉ cho Đỗ Bá Ch, địa chỉ: Thôn V L, xã H V, huyện Th T, H N mượn. Ch lại mang xe đến cầm cố cho Nguyễn Đình Ch lấy 4.800.000 đồng, không làm giấy tờ cầm cố. Nhưng do không thấy Ch đến chuộc xe, Ch đã sử dụng đi mua ma túy và gán lại xe cho Giàng A H. Hiện nay, qua xác minh của Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Ng, Đỗ Bá Ch và Giàng A Ch (người bán ma túy cho H) đều không có mặt tại địa phương.

Hành vi để Nguyễn Đình Ch sử dụng ma túy tại nhà của Giàng A H chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra Công an huyện V H không đặt vấn đề xử lý hành vi Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Cơ quan điều tra cũng yêu cầu nhà mạng là Tập đoàn viễn thông quan đội Viettel xác minh cuộc gọi và tin nhắn của 3 số thuê bao là 0984.934.609, 01632.092.805 và0983.034.621. Qua đó, xác định những số thuê bao trên của Nguyễn Đình Ch và Giàng A H, đã có gọi cho nhau để liên lạc và thực hiện giao dịch mua bán trái phép chất ma túy.

Tại  phiên  toà, Kiểm sát viên căn cứ vào  Cáo trạng  số  66/CT –  VKS ngày 06/9/2017 của VKSND huyện V H, Đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố bị cáo Giàng A H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Nguyễn Đình Ch phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ áp dụng điểm b, h khoản 2 điều 194 điểm p, q khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự 1999, xử phạt: Giàng A H từ 13 năm đến 13 năm 06 tháng tù.

+ áp dụng điểm h khoản 2 điều 194 điểm p,q khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 điều 7, khoản 1 điều 51, điểm g khoản 2 điều 249 BLHS 2015; điểm h khoản 2 điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội, xử phạt: Nguyễn Đình Ch từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

+ Không phạt bổ sung đối với các bị cáo;

Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng 20,73 gam Hêrôin và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 thẻ sử dụng Methadone mang tên Nguyễn Đình Ch.

+ Tịch thu số tiền 400.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu xanh trắng, đã qua sử dụng, bên trong đựng một sim Viettel có số thuê bao là 01632.092.805 của Giàng A H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 130 vỏ màu  đen,  đã  qua  sử  dụng, bên  trong  đựng  hai  sim  Viettel  có  số  thuê  bao  là 0984.934.609 và 0983.034.621 của Nguyễn Đình Ch để sung quỹ nhà nước.

+ Truy thu số tiền 47.400.000 đồng của Giàng A H do bán ma túy cho Nguyễn Đình Ch.

+ Tạm giữ của Nguyễn Đình Ch số tiền 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án phí, trả lại cho bị cáo 200.000 đồng.

+ Trả lại Giàng A H 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A H số 040154014594, hạng A1do Sở giao thông vận tải tỉnh Sơn La cấp ngày 29/12/2015.

+ Trả lại chị Đinh Thị M 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave BKS 29Y7 –  032.21 số máy 6192609, số khung 261648 đã qua sử dụng và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đinh Thị M.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, những người có QLNVLQ.

XÉT THẤY

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Giàng A H và Nguyễn Đình Ch đều khai thừa nhận hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, thể hiện: Do quen biết và hẹn trước, trong khoảng thời gian từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 5 năm 2017, Giàng A H đã 4 lần thực hiện mua hộ Nguyễn Đình Ch 04 gói Hêrôin của một người tên Giàng A Ch (H khai là chú họ, ở bản L X, xã L L, huyện V H, tỉnh Sơn La), được Ch trả công 4 lần tổng cộng 1.000.000 đồng.

Hành vi nhiều lần mua hộ Hêrôin cho người khác với mục đích thu lợi bất chính (được trả công) của Giàng A H đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b, h khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự. Hành vi mang tiền nhờ người khác mua hộ Hêrôin của Nguyễn Đình Ch nhằm sử dụng, đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm h khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan tội phạm ma túy, tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng an ninh, trật tự địa phương. Như vậy, việc truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cần tiếp tục xử phạt tù đối với các bị cáo, để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo. Bị cáo Giàng A H là dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức hạn chế, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Đình Ch , tự nguyện khai ra hành vi phạm tội trước đó, tích cực giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm, nhân thân nhiều lần bị xử phạt, nhưng đã được xóa án tích, có bố đẻ là người có công với cách mạng. Do vậy, HĐXX xem xét cho bị cáo Giàng A H được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Bị cáo Nguyễn Đình Ch được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định điểm p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, và được áp dụng nguyên tắc có lợi, căn cứ vào khoản 3 điều 7, điểm x khoản 1 điều 51, điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự 2015; điểm h khoản 2 điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có tài sản có giá trị, nghiện ma tuý, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Bị cáo Giàng A H là người mua hộ, được Giàng A Ch trả công 4 lần, thu lợi bất chính tổng số tiền 1.000.000 đồng (đã bị thu giữ 400.000 đồng), sẽ bị truy thu số tiền thu lợi bất chính còn lại là 600.000 đồng để sung quỹ nhà nước. Tại  cơ quan điều tra và tại phiên tòa, không có căn cứ xác định bị cáo thu lợi bất chính 47.400.000 đồng, do đó, HĐXX không truy thu số tiền này.

Vật chứng của vụ án:

+ 01 phong bì niêm phong đựng 20,73 gam Hêrôin và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Đình Ch là những vật bị cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.

+  01  điện  thoại  Nokia  vỏ  màu  xanh,  trắng  kèm  01  sim  Viettel  có  số 01632.092.805 đã qua sử dụng của Giàng A H; 01 điện thoại Nokia 130 vỏ màu đen kèm 02 sim Viettel có số 0984.934.609 và 0983.034.621 đã qua sử dụng của Nguyễn Đình Ch đều dùng để giao dịch việc phạm tội, cần tịch thu để sung quỹ nhà nước.

+ 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A H, là tài sản không liên quan đến việc phạm tội, cần tuyên trả lại cho bị cáo Giàng A H.

+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave,  BKS 29Y7 –  032.21 màu đen đỏ, số máy 6192609, số khung 261648 đã qua sử dụng và 01 đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đinh Thị M thuộc quyền sở hữu của chị Đinh Thị M. Do chồng chị M là Nguyễn Văn Ng sử dụng, sau đó cho Đỗ Bảo Ch mượn, Ch lại cầm cố cho Nguyễn Đình Ch, Ch lại gán nợ cho Giàng A H. Toàn bộ quá trình giao dịch đối với chiếc xe máy là những giao dịch vô hiệu. Chị Đinh Thị M không biết và không có lỗi trong việc phạm tội của các bị cáo. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi, cần tuyên trả lại chiếc xe máy cho chị M quản lý, sử dụng.

Số tiền 800.000 đồng (mỗi bị cáo bị tạm giữ 400.000 đồng). Số tiền 400.000 đồng của Giàng A H do phạm tội mà có, cần tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước. Số tiền của Nguyễn Đình Ch không liên quan đến tội phạm, không bị tịch thu mà tạm giữ 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án, còn lại trả bị cáo 200.000 đồng.

Về nguồn gốc chất ma túy: Bị cáo Giàng A H mua hộ Hêrôin cho Nguyễn Đình Ch từ Giàng A Ch, được Ch trả công bằng tiền. Cơ quan điều tra xác minh Giàng A Ch không có mặt ở địa phương, chưa có căn cứ để xử lý trong vụ án này. Do vậy, Giàng A H phải chịu trách nhiệm hình sự với 21,87 gam Hêrôin và 3 lần giao dịch mua hộ ma túy cho Nguyễn Đình Ch trước đó.

Hành vi để Nguyễn Đình Ch sử dụng ma túy tại nhà của Giàng A H chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra Công an huyện V H không đặt vấn đề xử lý hành vi Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng A H phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo Nguyễn Đình Chphạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Áp dụng điểm b, h khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999:

- Xử phạt: Giàng A H 12 (Mươi hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2017.

- Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Truy thu đối với bị cáo số tiền 600.000 đồng do phạm tội mà có.

- Không truy thu số tiền 47.400.000 đồng đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194, điểm p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 điều 7, điểm x khoản 1 điều 51, điểm g khoản 2 điều 249 BLHS 2015; điểm h khoản 2 điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội.

- Xử phạt: Nguyễn Đình Ch  05 (Năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2017.

- Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1, khoản 2 điều 41 BLHS 1999, các điểm a, b, c, đ khoản 2, khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng 20,73 gam Hêrôin và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Đình Ch.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại Nokia vỏ màu xanh, trắng kèm 01 sim Viettel có số 01632.092.805 đã qua sử dụng của Giàng A H; 01 điện thoại Nokia 130 vỏ màu đen kèm 02 sim Viettel có số 0984.934.609 và 0983.034.621 đã qua sử dụng của Nguyễn Đình Ch.

- Trả lại bị cáo Giàng A H 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A H.

- Trả lại chị Đinh Thị M 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave,  BKS 29Y7 –  032.21 màu đen đỏ, số máy 6192609, số khung 261648 đã qua sử dụng và 01 đăng ký mô tô, xe máy mang tên Đinh Thị M.

- Tịch thu số tiền 400.000 đồng của Giàng A H để sung quỹ nhà nước.

- Tạm giữ 200.000 đồng của Nguyễn Đình Ch để đảm bảo thi hành án.Trả lại bị cáo 200.000 đồng.

Toàn bộ Vật chứng theo biên bản giao vật chứng số: 84 ngày 18 tháng 9 năm 2017 và biên lai thu tiền số 001716  ngày 18 tháng 9 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V H.

4.  Về  án  phí:  Áp  dụng  điều  99  Bộ  luật  tố  tụng  hình  sự,  Nghị  quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo, Những người có QLNVLQ có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có QLNVLQ vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án của Tòa án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

515
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 90/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;