Bản án 90/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 90/2017/HSST NGÀY 24/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/11/2017, tại Tòa án huyện G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 88/2017/HSST ngày 18/10/2017 đối với bị cáo: 

Phạm Sỹ Đ, sinh năm 1991; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; học phổ thông 4/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Phạm Sỹ H, đã chết và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1967; không tiền án, tiền sự; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2017 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1981; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố bị cáo về hành vi sau:

Hồi 16 giờ, ngày 18/7/2017 tại Thôn C, xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Phạm Sỹ Đ có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy, trọng lượng 0,0415 gam Hêrôin cho anh Nguyễn Văn T với giá 400.000đ.

Vật chứng thu giữ: Của anh Nguyễn Văn T 02 gói ma túy gam và 01 điện thoại HTC; của bị cáo 01 gói ma túy có trọng lượng 0,0184gam, số tiền 400.000đ, 01 điện thoại nokia đen trắng, 01 xe máy Honda Wave RSX BKS 99H1 - 004.27.

Kết luận giám định số: 965/KLGĐ-PC 54 ngày 18/7/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

- Chất bột màu trắng trong phong bì thư ký hiệu M1 có trọng lượng 0,0415gam là ma túy, chất Hêrôin;

- Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có trọng lượng 0,0184gam là ma túy, chất Hêrôin.

Cáo trạng số: 83/CTr-VKS, ngày 16/10/2017 của Viện kiểm sát huyện G truy tố bị cáo Phạm Sỹ Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai: Vào ngày giờ nêu trên, anh Nguyễn Văn T gọi điện thoại cho bị cáo hỏi mua 400.000đ ma túy. Bị cáo đồng ý và hẹn anh T đến xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh để nhận ma túy. Sau đó bị cáo đi xe máy đến bán cho anh T 02 gói ma túy và nhận 400.000đ; sau khi giao nhận thì bị bắt. Khị bị bắt bị cáo còn cất giữ trong người 01 gói ma túy nhằm để bán.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, buộc tội bị cáo về tội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1, 5 Điều 194, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/07/2017; phạt bị cáo từ 05 đến 07 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại sau giám định. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 400.000đ, 01 điện thoại Nokia và 01 điện thoại HTC.

Bị cáo nhận tội, thừa nhận hành vi như Cáo trạng và Bản luận tội của Viện kiểm sát đã nêu; bị cáo không tham gia tranh luận với Viện kiểm sát mà xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp biên bản phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận giám định và vật chứng thu được có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 18/7/2017 tại thôn C, xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh bị cáo Phạm Sỹ Đ có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy là chất Hêrôin, có trọng lượng 0,0415gam cho Nguyễn Văn T với giá 400.000đ; đồng thời bị cáo còn cất giữ 01 gói ma túy là chất Hêrôin có trọng lượng 0,0184gam nhằm để bán. Như vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng trọng lượng ma túy là 0,0599gam, chất Hêrôin.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn cho xã hội; ma túy cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm hình sự khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vì tư lợi nên đã phạm tội. Bản án số 19/2015/HSST ngày 28/5/2015 củaTòa án huyện G xử phạt 04 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội đánh bạc; theo quy định của pháp luật đến lần phạm tội này bị cáo đã đương nhiên được xóa án tích, không bị tính là tiền án. Qua đó thấy bị cáo đã một lần bị đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tiền sự; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bán ma túy nhằm mục đích thu lợi, nên phạt bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước.

Anh Nguyễn Văn T có hành vi mua gói ma túy có trọng lượng 0,0415gam để sử dụng; do lượng ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện G xử lý hành chính là phù hợp.

Bị cáo khai mua ma túy của một người không biết tên, tuổi, địa chỉ; nên không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này. Khi nào điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 99H1 - 004.27, chiếc xe này thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Đình L, sinh năm 1977 ở thôn D, xã A, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Khi cho bị cáo mượn anh L không biết bị cáo sử dụng xe để đi bán ma túy nên Công an huyện G đã trả lại xe cho anh L là phù hợp; anh L nhận xe không yêu cầu, đề nghị gì nên Tòa án không đưa vào tham gia tố tụng và triệu tập đến phiên tòa.

Số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 400.000đ thu giữ của bị cáo là tiền do phạm tội mà có và 01 điện thoại Nokia, 01 điện thoại HTC dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát buộc tội bị cáo về tội đã truy tố, đề nghị mức hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Sỹ Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng:

- Khoản 1, 5 Đpiều 194, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 41 Bộ luật hình sự;

- Điều 76, Điều 99, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo:

Phạm Sỹ Đ 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 18/07/2017. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Phạt bị cáo 05 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 400.000đ, 01 điện thoại Nokia và 01 điện thoại HTC. Tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại sau giám định.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 90/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;