Bản án 896/2023/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 896/2023/KDTM-PT NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong các ngày 16 và 29 tháng 8 năm 2023 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2023/TLPT-KDTM ngày 10 tháng 7 năm 2023 về: “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 664/2023/KDTM-ST ngày 20 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2897/2023/QĐ-PT ngày 18 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH U Địa chỉ: Số C đường số F, Khu công nghiệp S, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lã Văn H, sinh năm 1951; địa chỉ: 2 N, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 05/11/2020) (có mặt).

2. Bị đơn: Công ty TNHH Đ Địa chỉ: A V, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hữu H1, sinh năm 1969 - chức danh: Giám đốc; địa chỉ: A V, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Người kháng cáo: Công ty TNHH Đ là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

* Nguyên đơn Công ty TNHH U trình bày:

Ngày 10/3/2020, Công ty TNHH U (sau đây gọi tắt là Công ty U) và Công ty TNHH Đ (sau đây gọi tắt là Công ty Đ) thỏa thuận ký Hợp đồng mua bán số 003/2020/HĐMB. Theo hợp đồng, Công ty U có nghĩa vụ cung cấp bê tông tươi trộn sẵn cho Công ty Đ tại công trình khu nhà ở thương mại P -1, T, D, Bình Dương. Quá trình thực hiện hợp đồng từ ngày 10/3/2020 đến ngày 25/8/2020, Công ty U đã xuất 05 hóa đơn với số tổng số tiền là 1.681.309.996 đồng. Các hóa đơn Công ty Đ đã ký nhận, không thắc mắc hay khiếu nại về chất lượng bê tông đã giao. Tính đến ngày 04/8/2020, Công ty Đ đã thanh toán cho Công ty U số tiền tổng cộng 1.244.760.000 đồng, còn nợ 436.549.996 đồng.

Do Công ty Đ không thanh toán mặc dù Công ty U đã nhiều lần yêu cầu nên Công ty U khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Đ thanh toán số tiền còn nợ là 436.549.996 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 05/9/2020 đến ngày 05/01/2023 là 157.376.273 đồng (lãi suất 10,3%/năm x 150%).

Về việc Công ty Đ cho rằng bê tông do nguyên đơn cung cấp không bảo đảm chất lượng do tự ý thêm nước vào bê tông nên không đồng ý thanh toán số tiền nợ 436.549.996 đồng, Công ty U xác định không có việc thêm nước vào bê tông khi cung cấp vì: Khi thực hiện giao bê tông, hai bên đã thực hiện đúng như hợp đồng thỏa thuận ký kết; Công ty U không nhận được bất cứ sự phản hồi nào từ phía Công ty Đ về bê tông kém chất lượng do đổ thêm nước vào; Kết quả kiểm định của Công ty cổ phần Khoa học Công nghệ Bách khoa Thành phố H do Công ty Đ tự yêu cầu, Công ty U không được biết nên không đồng ý với kết quả kiểm định.

* Bị đơn Công ty TNHH Đ trình bày:

Công ty Đ có thực hiện gói thầu thi công số 01/2020/HĐTC/DV - LH với Công ty Cổ phần Đ1 (Chủ đầu tư) để thực hiện dự án khu nhà ở thương mại P - I, T, D, Bình Dương.

Ngày 10/3/2020, Công ty U với Công ty Đ thỏa thuận ký Hợp đồng mua bán số 003/2020/HĐMB. Quá trình thực hiện hợp đồng từ ngày 10/3/2020 đến ngày 25/8/2020, Chủ đầu tư dự án yêu cầu Công ty Đ thay đổi nhà cung cấp bê tông do chất lượng bê tông không đảm bảo. Từ ngày 10/3/2020, Công ty U đã cung cấp tổng giá trị bê tông cho Công ty Đ là 1.681.309.996 đồng. Công ty Đ đã thanh toán 1.244.760.000 đồng, còn nợ 436.549.996 đồng.

Hai bên chưa lập biên bản đối chiếu công nợ vì quá trình cung cấp bê tông Công ty U đã không tuân thủ đúng quy trình cung cấp và đổ bê tông. Cụ thể: Tự thêm nước vào khi chưa có sự cho phép của Chủ đầu tư và Tư vấn giám sát (sự việc đã được lập biên bản ngày 11/8/2020). Sau khi thực hiện công tác tháo dỡ coppha, Công ty Đ cùng Công ty U, Chủ đầu tư và Tư vấn giám sát cùng kiểm tra chất lượng bê tông. Sau khi kiểm tra, đã xác nhận chất lượng bê tông không đạt và xuất hiện nhiều vết nứt trên sàn. Tổng số sàn bị nứt là 20 sàn (tương đương 1.120 m2).

Đồng thời, Chủ đầu tư yêu cầu Công ty Đ mời đơn vị kiểm định về thẩm tra chất lượng bê tông. Theo yêu cầu của Chủ đầu tư, Công ty Đ đã tiến hành thông báo cho Công ty U và ký hợp đồng số 476/2020/HĐ - KHCN với Công ty Cổ phần Khoa học Công nghệ Bách khoa Thành phố H (sau đây gọi tắt là Công ty B) về việc kiểm định chất lượng bê tông và tính an toàn của cấu kiện bê tông. Sau khi kiểm định, Công ty B đã lập báo cáo và xác nhận nguyên nhân gây nứt sàn tầng mái các căn A5 (từ A5.5 đến A5.14) và các căn A6 (từ A6.5 đến A6.14) do hàm lượng nước không phù hợp và chất lượng bê tông không bảo đảm. Để xử lý sự cố, Chủ đầu tư đã yêu cầu Công ty Đ gia cố lại sàn nứt và gia cố sàn bê tông theo đúng yêu cầu của Chủ đầu tư. Công ty Đ đã ký hợp đồng thầu phụ số 0310/2020/HĐTP - VV - LH không đề ngày tháng với Công ty TNHH V để gia cố sàn căn A5 (từ A5.5 đến A5.14) và các căn A6 (từ A6.5 đến A6.14) với giá trị 571.300.785 đồng.

Việc Công ty U đổ bê tông kém chất lượng vì đã cho thêm nước vào bê tông đã được lập thành văn bản ngày 11/8/2020. Công ty Đ đã có văn bản phản hồi và làm việc giữa Công ty Đ, Công ty U, Chủ đầu tư xác định việc Công ty U đổ thêm nước vào bê tông có lập biên bản làm việc ngày 11/8/2020.

Do bê tông kém chất lượng dẫn đến Chủ đầu tư và tư vấn giám sát không đồng ý nghiệm thu công trình, yêu cầu ngưng thi công và thanh lý đối với Hợp đồng thi công số 01/2020/HĐTC.DV - LH được ký kết giữa Công ty Đ với Chủ đầu tư ngày 22/4/2020, nên Công ty Đ không đồng ý thanh toán số tiền còn lại là 436.549.996 đồng cho Công ty U.

Trong quá trình xử lý sự cố, Công ty Đ đã nhiều lần mời Công ty U lên công trình làm việc để đưa ra phương án giải quyết và khắc phục sự cố nhưng Công ty U không hợp tác, né tránh trách nhiệm. Do thiệt hại của Công ty Đ lớn hơn nhiều so với số tiền 436.549.996 đồng còn nợ chưa thanh toán nên Công ty Đ không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty U.

Công ty Đ yêu cầu Tòa án cấp, tống đạt văn bản tố tụng theo địa chỉ số A V, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 664/2023/KDTM-ST ngày 20 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc Công ty TNHH Đ phải trả cho Công ty TNHH U số tiền tổng cộng là 611.121.461 đồng, trong đó nợ gốc là 436.549.996 đồng, lãi 174.571.465 đồng làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Công ty TNHH U có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty TNHH Đ không thanh toán đầy đủ số tiền nói trên thì Công ty TNHH Đ phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành theo mức lãi suất được theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ Luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra bản án sơ thẩm cũng xác định trách nhiệm chịu án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/5/2023, bị đơn Công ty Đ đã nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm do chưa họp tình, hợp lý, không xem xét chứng cứ do bị đơn nộp.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn Công ty Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét toàn bộ bản án sơ thẩm.

Nguyên đơn Công ty U giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các ý kiến đã trình bày, không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử phúc thẩm và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo được nộp trong thời hạn quy định nên hợp lệ.

- Về nội dung kháng cáo: Xét thấy kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty Đ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm do chưa hợp tình, hợp lý, không xem xét chứng cứ do bị đơn nộp, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về hình thức của đơn kháng cáo: Xét thấy đơn kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.

[2.2] Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.2.1] Về số nợ tiền hàng:

Xét, Hợp đồng mua bán số 003/2020/HĐMB ngày 10/3/2020 được ký kết giữa Công ty U với Công ty Đ được ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, hình thức và nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

Căn cứ Bảng tổng hợp khối lượng giá trị các tháng 3, 5, 6, 7, 8 năm 2020, các hóa đơn giá trị gia tăng và sự thừa nhận của bị đơn tại Tòa, có cơ sở xác định phía nguyên đơn đã thực hiện giao hàng cho bị đơn từ ngày 10/3/2020 đến ngày 25/8/2020 với khối lượng hàng có tổng giá trị là 1.681.309.996 đồng. Phía bị đơn đã thanh toán 1.244.760.000 đồng, còn lại 436.549.996 đồng chưa thanh toán.

Đối với ý kiến của bị đơn trình bày việc bị đơn chưa thanh toán số tiền 436.549.996 đồng là do nguyên đơn tự ý thêm nước vào bê tông làm bê tông kém chất lượng dẫn đến Chủ đầu tư chấm dứt hợp đồng thi công đối với bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo bị đơn trình bày căn cứ mục 4.2 kết luận về nguyên nhân gây nứt (trang 56) của Bản báo cáo kết luận kiểm định chất lượng công trình năm 2020 của Công ty B: “Nguyên nhân 2: Khi xi măng hydrat hóa sẽ tỏa ra một lượng nhiệt nhất định và gây co ngót dẫn đến nứt bê tông (có thể lượng nước trong bê tông của các đợt đổ chưa hợp lý)”. Tuy nhiên, xét, tại nội dung Bản báo cáo kết quả kiểm định chất lượng công trình không ngày tháng chỉ thể hiện năm 2020, đồng thời tại kết luận của Bản báo cáo kết quả kiểm định không khẳng định chắc chắn có phải do lượng nước trong bê tông của các đợt đổ chưa hợp lý hay không. Ngoài ra tại văn bản số 11/CV/2020 ngày 24/12/2020 về chấm dứt hợp đồng thi công do Chủ đầu tư gửi cho Công ty Đ không thể hiện nội dung chấm dứt thi công là do chất lượng bê tông.

Xét, căn cứ các Phiếu kết quả thí nghiệm, Biên bản thí nghiệm chứng kiến, quá trình cung cấp bê tông nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của hợp đồng đã ký về thử nghiệm độ sụt, thử nghiệm mẫu, tiêu chuẩn nghiệm thu. Công ty U và Công ty Đ cùng xác định cường độ chịu nén của bê tông cho công trình đều đạt theo yêu cầu dưới sự chứng kiến và xác nhận của Công ty Đ, Công ty U và Công ty B. Công ty U cũng không có khiếu nại gì về chất lượng bê tông gửi cho Công ty Đ.

Do đó không có cơ sở chấp nhận ý kiến này của bị đơn.

Theo quy định tại khoản 3.2 Điều 4 Hợp đồng mua bán số 003/2020/HĐMB các bên có thỏa thuận: “Trong vòng 05 ngày kể từ ngày phát hành hòa đơn giá trị gia tăng bên A phải thanh toán cho bên B 100% giá trị bê tông thể hiện trên hóa đơn giá trị gia tăng”. Như vậy, việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán sau khi nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ giao hàng và xuất chứng từ hóa đơn cho bị đơn là vi phạm hợp đồng, vi phạm Điều 50 Luật Thương mại năm 2005: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng” nên Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn có trách nhiệm trả số tiền hàng còn nợ 436.549.996 đồng, là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật.

[2.2.2] Về yêu cầu tính lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán:

Xét, do bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lãi do chậm thanh toán là có căn cứ theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005. Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của ít nhất 3 ngân hàng thương mại có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh gồm Ngân hàng TMCP C, Ngân hàng TMCP N, Ngân hàng TMCP Á với mức lãi suất là 15,25%/năm, thời gian và cách tính lãi là phù hợp quy định của pháp luật, từ đó chấp nhận số tiền lãi là 174.571.465 đồng, là có cơ sở.

[2.2.3] Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định nêu trên nên được chấp nhận.

[4] Đối với phần quyết định lãi, lãi suất trong bản án sơ thẩm đã tuyên “Kể từ ngày Công ty TNHH U có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty TNHH Đ không thanh toán đầy đủ số tiền nói trên thì Công ty TNHH Đ phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành theo mức lãi suất được theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ Luật dân sự năm 2015” là chưa phù hợp theo hướng dẫn tại Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, nên cần điều chỉnh lại cho phù hợp.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Nguyên đơn không phải chịu án phí. Bị đơn phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

- Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 147, 148, 308 và 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 26 và 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Đ. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 664/2023/KDTM-ST ngày 20 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc Công ty TNHH Đ phải trả cho Công ty TNHH U số tiền còn nợ phát sinh từ Hợp đồng mua bán số 003/2020/HĐMB ngày 10/3/2020 tổng cộng là 611.121.461 (Sáu trăm mười một triệu một trăm hai mươi mốt nghìn bốn trăm sáu mươi mốt) đồng, gồm: Nợ tiền hàng là 436.549.996 đồng và tiền lãi là 174.571.465 đồng.

Kể từ ngày Công ty TNHH U có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty TNHH Đ không thanh toán đầy đủ số tiền nói trên thì Công ty TNHH Đ phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường.

2. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty TNHH Đ phải chịu án phí sơ thẩm là 28.444.858 (Hai mươi tám triệu bốn trăm bốn mươi bốn nghìn tám trăm năm mươi tám) đồng.

Hoàn trả cho Công ty TNHH U tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.956.000 (Mười triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn) đồng theo Biên lai thu số AA/2019/0088912 ngày 03/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:

Công ty TNHH Đ phải chịu án phí phúc thẩm là 2.000.000 (Hai triệu) đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 2.000.000 (Hai triệu) đồng theo Biên lai thu số AA/2023/0027807 ngày 12/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty TNHH Đ đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

4. Các bên đương sự thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Bản án này có hiệu lực pháp luật ngay.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 896/2023/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:896/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;