Bản án 89/2023/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY XUYÊN - TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 89/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29/11/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên,tỉnh Quảng Nam xét xử sở thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST-HS ngày 17/11/2023, đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Mai Văn C, sinh ngày 02/9/1998 tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; trú tại: thôn AL, xã DT, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: lớp 10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Tiền án, tiền sự: HKhông.

Nhân thân: Ngày 27/3/2021, bị Công an xã DT, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”.

Ngày 26/9/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Con ông Mai Văn Th (sinh năm 1974) và bà Phạm Thị Nh (sinh năm 1976) cùng trú tại thôn AL, xã DT, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Bị cáo là con út trong gia đình có 02 chị em, chưa có vợ con.

Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ công an huyện Duy Xuyên. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo Nguyễn Văn T, sinh ngày 17/7/2003 tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; trú tại: khối phố PM, TTNP, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: lớp 9/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23/4/2021, bị Công an xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Ngày 14/6/2021, bị Công an xã DT, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Ngày 19/4/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Cạn xử phạt 13 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Con ông Nguyễn H (sinh năm 1970) và bà Võ Thị H (sinh năm 1980) cùng trú tại khối phố Phước Mỹ, thị trấn N, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em, chưa có vợ con.

Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ công an huyện Duy Xuyên. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Trạc Thị H, sinh năm 1990. Vắng mặt.

Trú tại: xóm D, xã T, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên vào giữa tháng 10/2022, Mai Văn C và Nguyễn Văn T đã cùng nhau bàn bạc, thống nhất, phân công vai trò thực hiện việc lừa đảo qua mạng với hình thức giả công ty tài chính, ngân hàng cho vay online để chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong đó, C là người tạo bài viết trên mạng xã hội với nội dung cho vay online với lãi suất thấp, thủ tục đơn giản, giải ngân trong ngày nhằm thu hút người có nhu cầu vay tiền, T chịu trách nhiệm chạy quảng cáo bài viết trên facebook để được nhiều người tiếp cận. C mua sim điện thoại rác số 0932988X và tạo tài khoản zalo ảo tên “Hà Minh Được” (tên này do T lấy từ căn cước công dân trên mạng về đưa cho C) còn T tạo tài khoản zalo ảo tên “Nguyễn Công Đăng”. Tiếp đó, T đưa tài khoản ngân hàng Vietcombank số tài khoản 1029955X tên “Pham Thanh Hop” cho C, tài khoản ngân hàng này do một người tên Phương ở thị trấn N (không xác định được lai lịch) để C yêu cầu người có nhu cầu vay tiền chuyển tiền đóng phí các loại như phí mua hồ sơ, phí kích hoạt khoản vay, phí bảo hiểm khoản vay, phí mua mã giải ngân vào tài khoản này để chiếm đoạt. Khi người có nhu cầu vay liên hệ thì C đóng giả là nhân viên tín dụng nhắn tin qua zalo để trao đổi nội dung liên quan đến khoản vay và hướng dẫn, yêu cầu người có nhu cầu vay đóng các loại phí. Đến giai đoạn giải ngân thì T dùng tài khoản zalo “Nguyễn Công Đăng” đóng giả là nhân viên bộ phận giải ngân để trao đổi, yêu cầu người vay tiền đóng các loại phí. Khi người có nhu cầu vay tiền chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng thì T liên hệ với Phương (chưa xác định được lai lịch) để lấy tiền mặt, mỗi lần lấy tiền mặt phải trả công 10% số tiền lấy được cho Phương.

Với thủ đoạn như trên, vào ngày 20/11/2022, bà Trạc Thị H khi đang truy cập vào mạng xã hội facebook thì thấy bài viết chạy quảng cáo cho vay tiền online kèm số điện thoại liên hệ nên bà H nhắn tin với tài khoản zalo “Hà Minh Được” của Mai Văn C và hỏi vay số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Lúc này, C dùng tài khoản zalo “Hà Minh Được” đăng nhập trên điện thoại di động Realme 3 của mình để nhắn tin với tài khoản zalo tên “E H Tn” của bà H. C nhắn tin zalo nói chuyện đồng thời T gọi điện zalo tư vấn và yêu cầu bà H chuyển tiền để đóng các khoản phí mới chịu giải ngân. Sau đó, bà H tin tưởng và dùng tài khoản ngân hàng Agribank số 85032X3200 tên TRẠC THỊ H chuyển 03 lần vào tài khoản ngân hàng Vietcombank tên “PHAM THANH HOP” số tài khoản 1029.955.X với tổng số tiền 14.725.000 đồng gồm lần thứ nhất 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) với lý do phí làm hồ sơ; lần thứ hai với số tiền 5.225.000 đồng (Năm triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) với lý do là kích hoạt khoản vay, lần thứ ba với số tiền 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) với lý do phí bảo hiểm khoản vay theo các yêu cầu của C và T. Sau khi nhận được tiền từ bà H, C tiếp tục yêu cầu bà H chuyển thêm tiền nhưng lúc này bà H phát hiện mình bị lừa nên không chuyển nữa. Số tiền lừa đảo có được, C đưa cho T 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), C 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), còn lại 1.725.000 đồng (Một triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) là tiền công của người tên Phương lấy tiền mặt giúp T từ tài khoản ngân hàng “PHAM THANH HOP”.

Tại Cơ quan điều tra, Mai Văn C và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 77/CT-VKSDX ngày 24 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên đã truy tố các bị cáo Mai Văn C và Nguyễn Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.Và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS năm 2015 xử phạt Mai Văn C từ 15 đến 18 tháng tù;

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Văn T từ 15 đến 18 tháng tù; Áp dụng Điều 56 tổng hợp hình phạt đối với các bị cáo. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Các bị cáo Mai Văn C và Nguyễn Văn T thừa nhận cáo trạng truy tố hành vi lừa đảo của các bị cáo là đúng. Các bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại. Các bị cáo ăn năn hối hận và xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại Trạc Thị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại hồ sơ thể hiện bà H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Phân tích những chứng cứ xác định có tội:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án có cơ sở khẳng định:

Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên vào ngày 20/11/2022, tại nhà Nguyễn Văn T (thuộc khối phố Phước Mỹ, thị trấn N, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), Mai Văn C và Nguyễn Văn T đã cùng nhau thống nhất thực hiện hành vi gian dối lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hình thức cho vay online với lãi suất thấp, thủ tục đơn giản, giải ngân trong ngày (không có thật) thông qua mạng xã hội facebook. Với cách thức thủ đoạn này, C và T đã chiếm đoạt của bà Trạc Thị H với tổng số tiền 14.725.000 đồng (Mười bốn triệu bảy trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đã có sự bàn bạc, thống nhất, phân công vai trò cụ thể nên các bị cáo phạm tội thuộc T hợp có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 174 BLHS.

Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Mai Văn C và Nguyễn Văn T phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015 và cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên là có căn cứ.

[2] Đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo:

Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần xử lý nghiêm để giáo dục các bị cáo đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, Mai Văn C và Nguyễn Văn T đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo là giản đơn, thông thường, giá trị chiếm đoạt không lớn, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 BLHS, nên cần áp dụng Điều 54 BLHS xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để tương xứng với mức độ, hành vi, hậu quả của tội phạm. Đối với bị cáo Mai Văn C gia đình có công với cách mạng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo C rũ rê, khởi xướng, hưởng tiền chiếm đoạt nhiều hơn, bị cáo T có vai trò giúp sức, nên xử bị cáo C mức hình phạt cao hơn bị cáo T.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét. [4] Về xử lý vật chứng:

* Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước vật chứng các bị cáo dùng làm công cụ phạm tội: 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme 3.

* Tịch thu tiêu hủy: 01 Sim số 0775.496.007

[5] Các vấn đề có liên quan:

Đối với tài khoản ngân hàng Vietcombank số 1029.955.X mang tên Phạm Thanh Hộp, qua xác minh là Phạm Thanh Hộp (sinh năm 2000, trú tại ấp Giồng Dung, xã Hậu Thạnh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) nhưng hiện nay Hộp không có mặt ở địa phương nên Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với số thuê bao 0934.988.X, Mai Văn C đăng ký tài khoản zalo để thực hiện hành vi phạm tội, qua xác minh chủ thuê bao là bà Huỳnh Thị Ái Ch (sinh năm 1961, trú tại thôn Khánh Đức, xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam). Bà Ch khai từ trước đến nay không đăng ký thuê bao số 0934.988.X để sử dụng làm phương tiện liên lạc và cũng không cho ai mượn thông tin cá nhân. Bà Ch cũng không có mối quan hệ gì với Mai Văn C và Nguyễn Văn T. Do đó, Cơ quan CSĐT không xem xét trách nhiệm pháp lý đối với bà Ch là phù hợp. Đối với người đàn ông tên Phương (không xác định được lai lịch) đã rửa tiền giúp cho Nguyễn Văn T, T không biết lai lịch của người này nên không có cơ sở để xem xét xử lý.

[6] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Duy Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Mai Văn C và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Các bị cáo Mai Văn C và Nguyễn Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2/ Hình phạt:

- Đối với bị cáo Mai Văn C:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS năm 2015 xử phạt Mai Văn C 18 tháng tù.

Căn cứ Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 18 tháng tù của bản án này và 06 (sáu) tháng tù của bản án số 74/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 02 năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù: tính từ ngày bắt đi thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án số 74/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

- Đối với bị cáo Nguyễn Văn T:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Văn T 15 tháng tù.

Căn cứ Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 15 tháng tù của bản án này và 13 (mười ba) tháng tù của bản án số 29/2023/HSST ngày 19/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 02 năm 04 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù: tính từ ngày bắt đi thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án số 29/2023/HSST ngày 19/4/2023 vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

3/ Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS * Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước vật chứng các bị cáo dùng làm công cụ phạm tội: 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme 3.

* Tịch thu tiêu hủy vật chứng không còn giá trị sử dụng: Sim số 0775.496.007.

Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duy Xuyên quản lý.

4/ Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án, xử buộc các bị cáo Mai Văn C và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

T hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm các bị cáo có quyền kháng cáo bản án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của bị hại là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 89/2023/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:89/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Duy Xuyên - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;