Bản án 89/2020/HNGĐ-ST ngày 11/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 89/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 11 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 297/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2020/QĐXX-ST ngày 24/11/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đào Công H, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn Tr, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

Bị đơn: Chị Trần Thị H1, sinh năm 1987 Nguyên quán: Xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

Địa chỉ: Thôn Tr, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. (Anh H, chị H1 có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là anh Đào Công H có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đào Công H kết hôn với chị Trần Thị H1 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 16/9/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng làm ở tỉnh Bình Dương, đến tháng 06 năm 2014 thì về chung sống tại gia đình Anh H ở Thôn Tr, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 01 năm 06 tháng thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị H1 không biết cư xử, không biết lựa lời ăn tiếng nói, không tôn trọng mẹ chồng. Anh đã nhiều lần nhắc nhở, khuyên bảo nhưng chị H1 không thay đổi tính nết. Vợ chồng không có tiếng nói chung, việc sinh hoạt vợ chồng không hòa hợp… dẫn tới xảy ra xô xát, cãi vã nhau nhiều lần. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, Anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H1.

Về con chung: Anh H trình bày, vợ chồng có 02 con chung là Đào Phương Nh, sinh ngày 05/3/2014 và Đào Công Minh Đ, sinh ngày 01/5/2016. Hiện nay con chung vẫn do vợ chồng cùng chăm sóc. Ly hôn Anh H đề nghị Tòa án giao cả hai con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, anh không yêu cầu chị H1 phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho anh. Lý do anh xin nuôi hai con vì anh rất thương yêu hai con, mẹ anh cũng ở cùng nhà và vẫn phụ giúp anh chăm sóc, đưa đón hai con đi học. Hiện anh mở cửa hàng kinh doanh giày dép ở thị trấn A, gần nhà, có thời gian để dành cho con và bản thân anh có điều kiện chăm con tốt hơn chị H1. Trường hợp Tòa án giải quyết giao mỗi người nuôi một con, anh đề nghị Tòa án giao con Đào Công Minh Đ cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Đào Phương Nh cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Tại bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình và tại phiên tòa, bị đơn là chị Trần Thị H1 trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị xác nhận về thời gian, hoàn cảnh, điều kiện kết hôn như Anh H trình bày là đúng. Vợ chồng xảy ra mâu thuẫn từ năm 2015, nguyên nhân mâu thuẫn là do Anh H nói đã có người phụ nữ khác nên muốn ly hôn. Bản thân chị thấy con chung còn quá nhỏ, từ trước đến nay chị vẫn sống bình thường với gia đình, với mẹ chồng. Nay Anh H có đơn xin ly hôn, chị không nhất trí, chị chỉ đồng ý ly hôn nếu Anh H để chị được nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung đúng như Anh H trình bày. Hai con chung hiện đang ở cùng chị và bà nội tại thôn Tr, xã A, còn Anh H chủ yếu sinh hoạt ở cửa hàng. Hai con chung đang học tập tại địa phương. Chị không muốn ly hôn, không muốn chia con. Trường hợp phải ly hôn, chị xin nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu Anh H phải góp tiền cấp dưỡng. Lý do chị xin nuôi hai con vì chị trực tiếp chăm sóc các con từ nhỏ, Anh H không để ý gì đến mẹ con chị, chị không muốn phải sống xa con và cũng không muốn các con phải sống xa nhau. Hiện tại chị đang đi làm công nhân ở công ty gần nhà, sáng đi, tối về, thu nhập khoảng hơn 6.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng: Xử cho anh Đào Công H được ly hôn chị Trần Thị H1; về con chung: Đề nghị giao con chung Đào Công Minh Đ, sinh ngày 01/5/2016 cho Anh H trực tiếp nuôi dưỡng; giao con Đào Phương Nh, sinh ngày 05/3/2014 cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa anh Đào Công H và chị Trần Thị H1 là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Các đương sự đều có địa chỉ cư trú tại xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, con chung của vợ chồng, vì vậy Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của Anh H, chị H1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không tìm được tiếng nói chung. Anh H cho rằng mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống và do chị H1 không biết cách cư xử còn chị H1 cho rằng Anh H có người phụ nữ khác, không có trách nhiệm với vợ con. Tuy nguyên nhân mâu thuẫn Anh H, chị H1 đưa ra là khác nhau song cả hai đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra nhiều năm, vợ chồng ít quan tâm, chia sẻ với nhau. Quá trình thụ lý, giải quyết, Tòa án đã kiên trì hòa giải, động viên để hai bên đoàn tụ song không có kết quả. Do đó, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho Anh H được ly hôn chị H1 là phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đào Phương Nh, sinh ngày 05/3/2014 và Đào Công Minh Đ, sinh ngày 01/5/2016. Cả Anh H, chị H1 đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con chung của anh chị là chính đáng, cả hai đều đi làm có thu nhập, có điều kiện chăm sóc con. Tuy nhiên với điều kiện hiện nay nếu giao cả hai con cho 01 bên nuôi dưỡng mà không yêu cầu bên kia góp tiền cấp dưỡng thì sẽ tạo ra khó khăn không nhỏ đối với người trực tiếp nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần giao mỗi người trực tiếp nuôi một con: Anh Hải nuôi con Đức, chị H1 nuôi con Nhi là đảm bảo điều kiện chăm sóc con tốt nhất. Hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh H, chị H1 đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Đào Công H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đào Công H được ly hôn chị Trần Thị H1.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao chị Trần Thị H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đào Phương Nh, sinh ngày 05/3/2014; giao anh Đào Công H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đào Công Minh Đ, sinh ngày 01/5/2016, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Anh Đào Công H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được đối trừ với tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004585 ngày 21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Anh H đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Đào Công H, chị Trần Thị H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11/12/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 89/2020/HNGĐ-ST ngày 11/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:89/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;