Bản án 89/2019/HS-ST ngày 13/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 89/2019/HS-ST NGÀY 13/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 105/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ; Sinh ngày: 13/3/1993; Tại: Tỉnh Bình Thuận; Thường trú: 145/8 đường HTK, phường MN, thành phố PT, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 02/12 (bị cáo khai biết đọc, biết viết); Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H (chết) và bà: Nguyễn Thị H; Có vợ: Không và con: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 08/5/2019.

Tiền án:

- Ngày 24/7/2012, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội «Cướp giật tài sản» (Bản án số: 16/2010/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2013 và hình phạt bổ sung ngày 18/10/2012 (Giấy chứng nhận đặc xá số: 1223/GCNĐX của Trại giam Xuân Lộc và Công văn trả lời xác minh số: 1057/CCTHADS ngày 29/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Ngày 18/01/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» (Bản án số: 29/2016/HSST), bị cáo kháng cáo, nhưng ngày 02/02/2016 có Đơn xin rút toàn bộ kháng cáo, nên ngày 11/3/2016, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đình chỉ xét xử phúc thẩm (Quyết định số: 108/2016/QĐPT-HS).

Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/9/2018 và hình phạt bổ sung (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 138/GCN của Trại giam Thủ Đức và Công văn trả lời xác minh số: 1341/CCTHADS ngày 18/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).

Nhân thân:

- Ngày 07/3/2015, bị Công an Phường 14, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Biên bản xác minh ngày 10/9/2015 của Công an Quận 6).

- Ngày 31/3/2015, bị Công an Phường 12, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Quyết định số: 0037271). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Trần Thị Phi L; Sinh năm: 1997; Trú tại: 173/3 đường Bình Thới, Phường 11, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Thái Thế L; Sinh năm: 1993; Thường trú: 86/9 đường BC 2, Phường L, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 56/44-56 đường NVS, phường TSN, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 07/5/2019, Đội cảnh sát hình sự Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Nguyễn Văn Đ đang điều khiển xe gắn máy biển số 59P2-142.33 chạy đến trước nhà số 191 đường HG, Phường E, Quận F có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của Đ 07 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu (Đ khai là ma túy đá), nên đã giao Đ cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ khai: Khoảng 20 giờ ngày 04/5/2019, Đ điện thoại cho một người đàn ông tên Hoàng Hôn (không rõ lai lịch) hỏi mua 09 gói ma túy đá giá 17.000.000 đồng (gồm: 04 gói giá 4.000.000 đồng, 03 gói giá 2.000.000 đồng, 01 gói giá 1.000.000 đồng, 01 gói giá 500.000 đồng). Sau đó, Đ đến điểm hẹn tại khu vực đường Nguyễn Sơn (gần quán Karaoke Holywood), quận Tân Phú gặp Hoàng Hôn nhận ma túy. Đến 18 giờ ngày 06/5/2019, Đ bán 02 gói ma túy với giá 8.000.000 đồng cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) trên đường Lãnh Binh Thăng, Quận 11, còn lại 07 gói Đ cất trong túi quần phía trước bên phải chưa kịp bán thì đã bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 1034/KLGĐ-H ngày 17 tháng 5 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 07 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Huỳnh Văn Gồng (người chứng kiến), Nguyễn Văn Đ và hình dấu Công an Phường 5, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 18,6886g (một tám phẩy sáu tám tám sáu gam), loại Methamphetamine.

Đối với người tên Hoàng Hôn bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ và người đàn ông mua ma túy từ Đ, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 92/CT-VKS-Q6 ngày 18 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo điểm i, điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua 09 gói ma túy đá với giá 17.000.000 đồng từ một người đàn ông tên Hoàng Hôn (không rõ lai lịch) vào tối ngày 04/5/2019 để bán và sử dụng. Khoảng 18 giờ ngày 06/5/2019, bị cáo bán 02 gói ma túy đá với giá 8.000.000 đồng (4.000.000 đồng/gói) cho một người đàn ông không rõ lai lịch trên đường Lãnh Binh Thăng, Quận 11. Còn lại 07 gói ma túy bị cáo chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu. Riêng số tiền 26.800.000 đồng bị thu giữ, trong đó có 8.000.000 đồng là tiền bị cáo bán 02 gói ma túy, còn 18.800.000 đồng là tiền riêng của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 11 năm đến 12 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo điểm i, điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt tiền bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe gắn máy biển số 59P2-142.33, số khung: RLCE1S9408Y018467, số máy: 1S94- 018467 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, sơn màu Trắng Đen, dung tích 134); 01 chiếc điện thoại di động phía trước và sau lưng có ghi chữ Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 358998096696219, số Imei 2: 358998097696218; 01 chiếc điện thoại di động phía trước và sau lưng có ghi chữ Nokia, vỏ màu xanh, số Imei: 354817/01/141785/2 và số tiền 26.800.000 đồng.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói có chứa ma túy bên ngoài ghi vụ số: 1034/19 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, bên trong chứa tinh thể không màu có khối lượng 18,1462 gam; 02 sim điện thoại (sim 1 có số thuê bao: 0898548251, sim 2 có số thuê bao: 0937497394); 01 sim điện thoại số thuê bao 0932064460.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn Đ nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Đ tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm tội «Mua bán trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ đã mua bán chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine). Và chất ma túy mà bị cáo cất giữ để bán có khối lượng 18,6886 gam, là phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc trường hợp «chất ma túy ở thể rắn có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam». Ngoài ra, bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích (ngày 24/7/2012, bị Tòa án nhân dân Quận 11 xử phạt 03 năm tù về tội «Cướp giật tài sản»; ngày 18/01/2018, bị Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 04 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy», bị cáo kháng cáo, nhưng ngày 02/02/2016 có Đơn xin rút toàn bộ kháng cáo, nên ngày 11/3/2016, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đình chỉ xét xử phúc thẩm) mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là «Tái phạm nguy hiểm». Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo quy định tại điểm i, điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng do hám lợi, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bản thân bị cáo Nguyễn Văn Đ còn có nhân thân xấu, đó là ngày 07/3/2015, bị Công an Phường 14, Quận 6 xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 31/3/2015, bị Công an Phường 12, Quận 6 xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lẽ ra bị cáo phải biết rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội, nhưng ngược lại, vẫn tiếp tục sống buông thả và phạm tội. Ngoài ra, trong thời gian bị tạm giam, bị cáo vi phạm kỷ luật, vi phạm nội quy của Nhà tạm giữ (đánh phạm cùng phòng). Cho thấy, bị cáo là người hết sức xem thường pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn Đ là rất nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối với số tiền mà bị cáo Nguyễn Văn Đ khai thu lợi từ hành vi mua bán ma túy. Xét thấy, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác, nên Hội đồng xét xử không đủ căn cứ để buộc bị cáo nộp lại khoản tiền này.

[6] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện, tiền mà bị cáo Nguyễn Văn Đ dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động phía trước và sau lưng có ghi chữ Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 358998096696219, số Imei 2: 358998097696218 và 8.000.000 đồng (trong số tiền 26.800.000 đồng bị thu giữ), Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59P2-142.33 thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Đ, theo Bản kết luận giám định số: 4010/KLGĐ-X(Đ6) ngày 31/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL14) và Phiếu trả lời xác minh số: 507 ngày 13/5/2019 của Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (BL74) thì chiếc xe này có số khung: RLCE1S9408Y018467, số máy: 1S94- 018467 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, sơn màu Trắng Đen, dung tích 134), do ông Thái Thế L đứng tên chủ xe. Năm 2017, ông L đã bán chiếc xe lại cho người khác, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu và ông L xác nhận không còn quyền lợi gì đối với chiếc xe này (theo Biên bản ghi lời khai ngày 23/5/2019 của Công an Quận 6 - BL76, 77). Ngày 24/5/2019, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã đề nghị thông báo tìm chủ hữu của chiếc xe gắn máy biển số 59P2-142.33 trên Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn không có ai đến nhận. Còn bị cáo Nguyễn Văn Đ khai chiếc xe này là do bạn gái của bị cáo tên Trần Thị Phi L thấy bị cáo không có xe làm phương tiện đi lại nên đưa tiền cho bị cáo mua và sáng ngày 07/5/2019, bị cáo đã mua chiếc xe từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 22.000.000 đồng, nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Tại phiên tòa, bà Trần Thị Phi L vắng mặt, nhưng tại Cơ quan điều tra bà L khai do thấy Đ không có phương tiện đi lại nên bà đã đưa cho Đ 40.000.000 đồng để Đ mua xe, còn việc Đ thích mua xe gì, mua của ai, mua với giá bao nhiêu, xe có giấy tờ không thì bà không biết (theo Biên bản ghi lời khai ngày 08/5/2019 của Công an Quận 6 - BL78, 79). Xét thấy chiếc xe gắn máy biển số 59P2-142.33 hiện chưa rõ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp và bị cáo cũng đã sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội, nên nếu trong thời hạn 04 (bốn) tháng, kể từ ngày thông báo trên phương tiện thông tin Đ chúng mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Còn nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này thì trả lại cho họ.

Đối với 01 gói có chứa ma túy bên ngoài ghi vụ số: 1034/19 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, bên trong chứa tinh thể không màu có khối lượng 18,1462 gam; 02 sim điện thoại (sim 1 có số thuê bao: 0898548251, sim 2 có số thuê bao: 0937497394), là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động phía trước và sau lưng có ghi chữ Nokia, vỏ màu xanh, số Imei: 354817/01/141785/2 (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0932064460) và số tiền 18.800.000 đồng (trong số tiền 26.800.000 đồng) thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Đ. Xét thấy không đủ căn cứ xác định tiền do bị cáo phạm tội mà có, cũng như không chứng minh được bị cáo đã hoặc sẽ dùng chiếc điện thoại này vào việc phạm tội, nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 58/PNK ngày 06 tháng 6 năm 2019 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 02 ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL16, 17)

[7] Đối với người đàn ông tên Hoàng Hôn mà bị cáo Nguyễn Văn Đ khai bán ma túy cho bị cáo và những người mua ma túy từ bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội: «Mua bán trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm i, điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2019.

- Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ nộp phạt 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

- Căn cứ điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59P2-142.33, số khung: RLCE1S9408Y018467, số máy: 1S94-018467 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, sơn màu Trắng Đen, dung tích 134) nếu trong thời hạn 04 (bốn) tháng, kể từ ngày thông báo trên phương tiện thông tin Đ chúng mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe. Còn nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe này thì trả lại cho họ ; 01 (một) chiếc điện thoại di động phía trước và sau lưng có ghi chữ Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 358998096696219, số Imei 2: 358998097696218 và 8.000.000 (tám triệu) đồng.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy bên ngoài ghi vụ số: 1034/19 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, bên trong chứa tinh thể không màu có khối lượng 18,1462 gam; 02 (hai) sim điện thoại (sim 1 có số thuê bao: 0898548251, sim 2 có số thuê bao: 0937497394).

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (một) chiếc điện thoại di động phía trước và sau lưng có ghi chữ Nokia, vỏ màu xanh, số Imei: 354817/01/141785/2; 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0932064460 và 18.800.000 (mười tám triệu tám trăm ngàn) đồng.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 89/2019/HS-ST ngày 13/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;