Bản án 89/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 89/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 01 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2019/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Châu Thị N, sinh năm 1970. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1970. Cùng trú tại: Ấp K, xã K, Huyện T, tỉnh Cà Mau

(Nguyên đơn có mặt - Bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Châu Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn H chung sống với nhau từ năm 1991, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Thời gian chung sống, vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn lại được nữa. Nay, bà nhận thấy cuộc sống của vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

Về con chung: Có 03 người con chung tên: Nguyễn Thị D, sinh ngày 25/6/1993; Nguyễn Kiều T, sinh ngày 28/02/1996 và Nguyễn Kiều O, sinh ngày 10/8/2005. Đối với cháu: D, T đã trưởng thành, có cuộc sống riêng. Còn cháu O hiện đang đi học và sống chung với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu O.

Không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ: Bà xác định không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng nhưng ông H vắng mặt tại tòa; không có văn bản nêu ý kiến gửi đến Tòa án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ghi nhận ý kiến của cháu Oanh có nguyện vọng được sống chung với bà Châu Thị N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn ông Nguyễn Văn H có nơi trú tại ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; về quan hệ pháp luật là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông H vắng mặt. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số: 382 – Quyển số 02/2004, ngày 09/7/2004 của Uỷ ban nhân dân xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời thì giữa bà N và ông H đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, hiện nay cuộc sống vợ chồng giữa bà N và ông H đã mâu thuẫn trầm trọng. Mạnh ai nấy sống, người nào chỉ biết bổn phận của người đó. Không cùng nhau thực hiện các công việc gia đình. Không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Không biết được thông tin về tình trạng cuộc sống của nhau. Như vậy, bà N và ông H đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giải quyết cho bà N được ly hôn với ông H.

[3] Về con chung:

Bà N và ông H có 03 người con chung tên: Nguyễn Thị D, sinh ngày 25/6/1993; Nguyễn Kiều T, sinh ngày 28/02/1996 và Nguyễn Kiều O, sinh ngày 10/8/2005. Hiện cháu O do bà N trực tiếp nuôi dưỡng, còn cháu D và cháu T đã trưởng thành, có cuộc sống riêng. Khi ly hôn, bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu O, còn cháu D và cháu T đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Bà N không có yêu cầu ông H phải cấp dưỡng. Còn đối với ông H, vẫn không có văn bản gửi đến Tòa án nên không có cơ sở xem xét.

Xét, con chung tên Nguyễn Kiều O hiện đang sống chung với bà N, để ổn định về thời gian, phát triển tốt về mọi mặt, cũng như tôn trọng nguyện vọng của cháu O. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu O cho bà N được trực tiếp nuôi dưỡng. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con chung. Ông H không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc nuôi dạy con chung không ai có quyền ngăn cản.

[4] Về tài sản chung và nợ chung:

Bà N xác định không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí:

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm số tiền 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 228; Điều 235; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng: Điều 19; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 và Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho bà Châu Thị N được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Kiều O, sinh ngày 10/8/2005 cho bà Châu Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Nguyễn Văn H không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc nuôi dạy con chung không ai có quyền ngăn cản. Đối với cháu Nguyễn Thị D, sinh ngày 25/6/1993 và cháu Nguyễn Kiều T, sinh ngày 28/02/1996 đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung và nợ: Bà Châu Thị N xác định không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bà Châu Thị N đã dự nộp trước 300.000 đồng tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002662 ngày 29/01/2019 được chuyển thu án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Còn bị đơn kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 89/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:89/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;