TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 889/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ B VÀ ANH C
Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 570/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 128/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04/9/2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Thạch Thị B; Sinh năm 1980;
Nơi cư trú: số 48F/13 đường A, Phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh;
- Bị đơn: Ông Trần Thanh C; Sinh năm 1980;
Nơi cư trú: số 48F/13 đường A, Phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh;
(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/6/2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, nguyên đơn chị Thạch Thị B trình bày:
Chị B và anh Trần Thanh C chung sống có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân Phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 175, quyển số 01/2008, đăng ký ngày 08/10/2008. Trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do giữa chị B và anh C bất đồng quan điểm sống, anh C không chăm lo cho gia đình dẫn đến giữa vợ chồng thường xuyên gây tranh cãi. Mặc dù cả hai đã nhiều lần tự hoà giải, hàn gắn nhưng mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng hơn, giữa vợ chồng không còn tiếng nói chung, không chia sẻ được các vấn đề trong cuộc sống gia đình. Năm 2019, chị B có nộp đơn đến Toà án nhân dân Quận 8 để yêu cầu được ly hôn với anh C nhưng do muốn có thêm cơ hội để vợ chồng đoàn tụ, chị B đã rút đơn khởi kiện. Từ ngày rút đơn kiện đến nay, anh C vẫn không thay đổi dẫn đến tình trạng hôn nhân thêm trầm trọng. Do đó, chị B nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị B được ly hôn anh C.
Về con chung: Có một người con chung tên Trần Tấn T, sinh ngày 16/3/2005.
Chị B giao cho anh C trực tiếp nuôi con chung Tấn T sau khi ly hôn. Chị B tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 (hai triệu) đồng.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị B tự xác định giữa chị B và anh C không có tài sản chung và không nợ gì của ai.
Bị đơn anh Trần Thanh C đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh C vẫn vắng mặt tại các phiên hoà giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nên Tòa án không ghi được lời khai, không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và xét xử, Tòa án đã chấp hành đúng các qui định của pháp luật về tố tụng dân sự, về thời hạn giải quyết vụ án đảm bảo theo quy định của pháp luật, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Thạch Thị B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Anh Trần Thanh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để hòa giải mà vẫn cố tình vắng mặt. Do vậy, theo quy định tại Điều 207 của Bộ Luật tố tụng dân sự, vụ án không thể tiến hành hòa giải được.
Anh C đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Giấy triệu tập dự phiên tòa xét xử đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh C theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn chị Thạch Thị B có đơn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét đơn khởi kiện của chị Thạch Thị B thì đây là tranh chấp ly hôn theo yêu cầu một bên, do bị đơn là anh Trần Thanh C tại thời điểm thụ lý vụ án có nơi cư trú tại Quận 8 nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8 theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.
[3] Về các yêu cầu của đương sự:
Chị Thạch Thị B và anh Trần Thanh C chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 175, quyển số 01/2008, nên xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3.1] Xét yêu cầu ly hôn của chị B, chị B trình bày trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do giữa chị B và anh C bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên gây tranh cãi. Dù đã cố gắng hòa giải nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn sự chia sẻ và tôn trọng nhau, cuộc sống gia đình không có hạnh phúc. Tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị B yêu cầu được ly hôn. Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của chị B là có căn cứ cần giải quyết.
Xét thấy anh C đã được Tòa án triệu tập nhiều lần đến Tòa để tạo điều kiện cho hai bên hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng anh C vẫn vắng mặt tại các buổi hoà giải và cũng không có mặt tại phiên tòa xét xử, điều này thể hiện anh C không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng giữa chị B và anh C không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không còn đạt được, nên yêu cầu ly hôn của chị B là có căn cứ cần chấp nhận vì phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3.2] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có một con chung tên: Trần Tấn T, sinh ngày 16/3/2005.
Chị B giao cho anh C trực tiếp nuôi con chung Tấn T sau khi ly hôn vì hiện nay con chung đang sinh sống ổn định với anh C. Chị B tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng).
Xét yêu cầu của chị B, ý kiến của con chung là phù hợp với Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình mặt khác cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung và đảm bảo quyền lợi của con nên chấp nhận yêu cầu của chị B, giao con chung Tấn T cho anh C tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, ghi nhận việc chị B tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng). Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị B tự khai giữa chị B và anh C không có tài sản chung và không nợ gì của ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do chưa có ý kiến của anh C về các vấn đề này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết, nếu sau này có tranh chấp, các bên có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết bàng một vụ án khác.
[4] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm (cấp dưỡng nuôi con chung) là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 207, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;
Áp dụng:
- Các Điều 8, 9, 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13;
- Điều 357 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;
- Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Thạch Thị B.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Thạch Thị B được ly hôn với anh Trần Thanh C.
2. Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có một con chung tên Trần Tấn T, sinh ngày 16/3/2005.
Giao con chung Trần Tấn T cho anh Trần Thanh C trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận việc chị Thạch Thị B tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng). Bắt đầu thi hành ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật, lần lượt hàng tháng cho đến khi con chung thành niên. Thi hành tại cơ quan thi hành dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày anh C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị B không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đúng theo thỏa thuận nêu trên, thì chị B còn phải chịu trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.
Chị B có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm (Ly hôn) là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm (Cấp dưỡng nuôi con chung) là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Thạch Thị B phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0043849 ngày 19/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị B còn phải nộp thêm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
5. Về quyền kháng cáo: Chị B, anh C có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự; Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo các Điều 6, 7, 7a, 7b, và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án 889/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn giữa chị B và anh C
Số hiệu: | 889/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về