Bản án 883/2020/HNGĐ-PT ngày 17/09/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 883/2020/HNGĐ-PT NGÀY 17/09/2020 VỀ LY HÔN

Trong ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 71/2020/TLPT-HNGĐ ngày 24/6/2020 về việc “Ly hôn”;

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 262/2020/HNGĐ-ST ngày 19/05/2020 của Tòa án nhân dân quận P bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3786/2020/QĐ-PT ngày 28/7/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Kế B, sinh năm 1977 Địa chỉ: 11/19 Đường T, phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: 152/6 Đường Đ, phường H, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp về tranh chấp nuôi con: Ông Đào Kim B2, sinh năm 1981. Địa chỉ: 471/26 đường C, phường T, Quận B , Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 14/9/2020) Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: 11/19 Đường T, phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: 558/1/12 Đường Q, phường 28, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người kháng cáo: ông Phan Kế B là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm: Nguyên đơn ông Phan Kế B trình bày:

Ông và bà T tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2016, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 149 ngày 19/9/2016 do Ủy ban nhân dân phường T, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp.

Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường. Năm 2017, hai bên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp. Ngoài ra trong thời gian sống chung, bà T luôn làm áp lực yêu cầu ông sang tên căn nhà số 152/6 Đường Đ, phường H, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh và căn nhà ở 14 Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội nhưng ông không đồng ý nên bà T luôn kiếm lý do tranh cãi và vu khống ông đánh bà để mời công an phường đến giải quyết. Từ tháng 3/2017 cho đến nay, bà T đã đưa con đi nơi khác sống riêng. Đến tháng 4/2019, ông mới tìm được địa chỉ tạm trú của bà T thì ông có lui tới thăm con. Tại đây ông biết được bà T đi làm phục vụ quán nhậu không đảm bảo thời gian để chăm sóc con nên ông đã đón con đến Công ty ông làm việc để chăm sóc từ 14g đến 24g mỗi ngày từ thứ hai đến thứ sáu. Ông đề nghị bà T cho con đi học nhưng bà T không đồng ý. Khoảng tháng 6/2019, bà T nhắn tin đồng ý giao con cho ông chăm sóc vì bà đang lo trả nợ. Ông đã chuyển cho bà T 164.000.000 đồng để bà trả nợ và đón con về cho đi học ở trường mầm non. Sau đó, ông và bà T đã nhiều lần xảy ra tranh chấp về việc trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Sự việc dẫn đến ông có đơn tố cáo, được Công an phường Tân Thới Nhất và Công an Quận M giải quyết. Nay ông yêu cầu được ly hôn bà T.

Về con chung: ông và bà T có 01 người con chung là Phan Quỳnh M, sinh ngày 11/01/2017. Khi ly hôn ông có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con do ông có đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Bà xác nhận lời trình bày của ông B về thời gian kết hôn và quá trình chung sống, về con chung. Sau khi kết hôn, bà sống chung cùng ông B và 02 con gái riêng của ông B với người vợ trước. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông B có hành vi đánh đập bà. Bà đã đưa con ra khỏi nhà sống riêng từ tháng 3/2017, đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhưng sau đó rút đơn về. Xác nhận hai bên nhiều lần xảy ra tranh chấp về việc trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và né tránh việc cho thăm con. Bà và ông B đều có đơn tố cáo đến Công an phường Tân Thới Nhất và Công an Quận M giải quyết về việc người này đưa con đi nơi khác không cho người kia thăm nom. Đối với yêu cầu ly hôn của ông B, bà đồng ý; còn yêu cầu về việc được trực tiếp nuôi dưỡng người con chung bà không chấp nhận vì bà là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con từ khi sinh ra đến nay, có công việc và thu nhập đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 262/2020/HNGĐ-ST ngày 19/5/2020 của Tòa án nhân dân quận P đã tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Phan Kế B.

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa ông Phan Kế B và bà Nguyễn Thị Thanh T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 149 ngày 19/9/2016 do Ủy ban nhân dân phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông B và bà T không còn giá trị pháp luật kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực.

- Về quan hệ con chung: Giao con chung là Phan Quỳnh M, sinh ngày 11/01/2017 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông B do bà T không có yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông B được quyền thăm nom con, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Ông B và bà T khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 21/5/2020, ông Phan Kế B có đơn kháng cáo một phần bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 262/2020/HNGĐ-ST ngày 19/5/2020 của Tòa án nhân dân quận P. Ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng người con chung Phan Quỳnh M vì ông có khả năng nuôi con hơn bà T.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn ông Phan Kế B và đại diện nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về quan hệ con chung. Ông B có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng người con chung vì so với bà T ông có đủ điều kiện đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con hơn. Nếu được nuôi con ông không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T đề nghị giải quyết việc nuôi con như án sơ thẩm vì người con chung còn rất nhỏ, ở với mẹ từ khi sinh ra đến nay. Ông B không có trách nhiệm gì đối với con và cũng không thể chăm sóc con được.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về hình thức: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và thủ tục tại phiên tòa .

Về nội dung: Xét kháng cáo của ông B yêu cầu được trực tiếp nuôi con Phan Quỳnh M, sinh ngày 11/01/2017. Xét thấy, ông B và bà T đều có công việc ổn định, tuy ông B có điều kiện hơn trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ Mai nhưng trẻ Mai là bé gái, tuổi còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Từ tháng 3/2017 khi đôi bên ly thân trẻ Mai ở với mẹ; bà T cũng quan tâm, chăm sóc, tạo điều kiện cho con phát triển về thể chất, tinh thần. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm giao người con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là có căn cứ pháp luật nên kháng cáo của nguyên đơn không có cơ sở chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Án phí: ông B phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Phan Kế B làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; đương sự có kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1] Xét kháng cáo của ông Phan Kế B, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về con chung: Lời khai ông B, bà T cùng xác nhận đôi bên có 01 người con tên Phan Quỳnh M, sinh ngày 11/01/2017. Án sơ thẩm tuyên xử bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông B do bà T chưa có yêu cầu.

Tại phiên tòa phúc thẩm ý kiến ông B không đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông cho rằng bà T có công việc làm thu nhập thấp, không có nhiều thời gian chăm sóc con, trẻ không được đi học. Do đó, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu bà T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do ông có điều kiện kinh tế nuôi con.

Xét, nguyện vọng mong muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con của ông B và bà T đều xuất phát từ tình thương và trách nhiệm đối với con. Nhưng để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho người con được phát triển toàn diện về tinh thần lẫn thể chất, Hội đồng xét xử xét thấy:

Người con chung Phan Quỳnh M hiện còn rất nhỏ, đã trực tiếp ở bên mẹ từ khi sinh ra đến nay. Dù ông B không đóng góp cấp dưỡng nuôi con nhưng bà T vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng con phát triển bình thường, trẻ được đi học. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông B không xuất trình được chứng cứ nào cho thấy bà T không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Ngoài người con chung với bà T, hiện tại ông B còn phải trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc 02 người con của người vợ trước. Xét, án sơ thẩm đã cân nhắc xem xét toàn diện căn cứ theo quy định pháp luật. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị giao cho bà T trực tiếp nuôi người con chung để đảm bảo sự ổn định của con. Vì vậy, cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo về việc được trực tiếp nuôi con của ông B nên giữ nguyên quyết định về phần con chung của cấp sơ thẩm. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, bà T tự nguyện không yêu cầu ông B thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà có khả năng, điều kiện nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Án phí ly hôn sơ thẩm và phúc thẩm ông B phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự năm 2008.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phan Kế B; giữ nguyên bản án sơ thẩm về con chung;

Tuyên xử:

1. Về con chung: Giao con chung là trẻ Phan Quỳnh M, sinh ngày 11/01/2017 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông B do bà T không có yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa giải quyết.

Ông B được quyền thăm nom con, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (người thân thích, cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ), Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 (ba trăm nghìn) đồng ông Phan Kế B phải chịu, cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng ông B đã nộp tại Biên lai thu tiền số AA/2019/002024 ngày 11/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông B đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Án phí dân sự phúc thẩm ông Phan Kế B phải chịu, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng ông B đã nộp tại Biên lai thu tiền số AA/2019/0020895 ngày 22/5/2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông B đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 883/2020/HNGĐ-PT ngày 17/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:883/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;