TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 88/2022/DS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 236/2022/TLST-DS ngày 18/5/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2022/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 113/2022/QĐST-DS ngày 21 tháng 9 năm 2022, giữa:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần cà phê T (trước đây là Công ty TNHH MTV cà phê T).
Địa chỉ: Km 17, Quốc lộ 26, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957. Địa chỉ: 65 Trần Nhật D, phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Thôn 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Đình B trình bày: Vào ngày 04/11/2016, ông Nguyễn Văn G có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T) để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1987 của Công ty có diện tích 9.590m2.
Trên cơ sở đơn của ông G, thì ngày 4/11/2016 giữa ông Nguyễn Văn G và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 31/2016/HĐ-GK với nhau. Theo Hợp đồng số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016 thì: ông Nguyễn Văn G nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê vối của Công ty trồng năm 1987, có diện tích 9.590m2 và diện tích bờ lô 1.393m2, thửa đất số 97, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19/5. Địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K. Thời gian giao khoán là 03 năm, tính từ ngày ký kết hợp đồng đến niên vụ 2020-2021. Sản lượng giao khoán hằng năm ông G nộp về Công ty theo thỏa thuận trong hợp đồng giao khoán. Cụ thể: niên vụ 2016-2017 đến niên vụ 2018- 2019 là 2.291 kg quả tươi, tương ứng với 5,25 tạ nhân/ha/năm.
Từ khi nhận vườn cây đến niên vụ 2017-2018, ông G đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đúng nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng đã ký với Công ty. Đến hết niên vụ 2018-2019 thì hai bên hết hạn hợp đồng. Từ niên vụ năm 2019-2020 đến nay Công ty đã nhiều lần yêu cầu ông đến Công ty để thanh lý, chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng ông G đều không hợp tác. Ông vẫn đang quản lý và hưởng lợi từ vườn cây của Công ty, do đó ông phải có nghĩa vụ đóng sản lượng cho Công ty khi không chịu thanh lý, chấm dứt hợp đồng. Tổng sản lượng cà phê quả tươi mà ông G còn nợ của Công ty là 7.948 kg cà phê quả tươi của 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021- 2022). Trong đó: Niên vụ 2018-2019 ông còn nợ 1.075kg, niên vụ 2019-2020 là 2.291kg, niên vụ 2020-2021 là 2.291kg, niên vụ 2021-2022 là 2.291kg.
Đối với tiền thuê đất phần 49% của ông G nộp cho Công ty theo hợp đồng thì ông chưa nộp, hiện ông vẫn còn nợ tiền thuê đất phần 49% của ông (truy thu tiền thuê đất từ năm 2016-2017, trả tiền thuê đất từ năm 2018-2021). Việc truy thu tiền thuê đất và trả tiền thuê đất được thực hiện theo Thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk. Tổng số tiền thuê đất ông G phải nộp về Công ty phần 49% của ông là 5.767.962 đồng (trong đó truy thu tiền thuê đất năm 2016-2017 là 1.923.128 đồng, nộp tiền thuê đất các năm: năm 2018 là 961.569 đồng, năm 2019 là 961.569 đồng, năm 2020 là 960.848 đồng, năm 2021 là 960.848 đồng).
Tại thời điểm nhận khoán thì tài sản trên đất có các cây trồng sau: 1044 cây cà phê vối trồng năm 1987 và 80 cây muồng đen được trồng năm 1987. Trong quá trình nhận khoán thì hiện nay cây cà phê vối còn 900 cây (trong đó: Loại A có 450 cây, loại B có 270 cây, loại C có 180 cây). Đối với 80 cây muồng đen được trồng năm 1987 thì ông đã tự ý chặt và chiếm dụng gỗ tròn 68 cây, có tổng khối lượng gỗ là 41,65m3 (Công ty có lập biên bản đối với ông nhưng ông không ký, biên bản ngày 21-02-2022, ngày 25-02-2022 và ngày 02-03-2022 có xác nhận của Công an xã H). Cây muồng đen hiện còn 12 cây (trồng năm 2012 được trồng bù cho cây muồng đen trồng năm 1987), tổng khối lượng gỗ là 0,6m3 (chưa đạt tiêu chuẩn lấy gỗ), 26 cây muồng đen do ông G tự trồng trên đất nhận khoán vào năm 2015.
Khi hết hạn hợp đồng, từ niên vụ 2019-2020 cho đến nay hai bên chưa ký lại hợp đồng mới, chưa thanh lý chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng mặc dù Công ty đã nhiều lần thông báo yêu cầu ông cùng với Công ty gia hạn hợp đồng hoặc thanh lý, chấm dứt hợp đồng nhưng ông không hợp tác và ông vẫn đang quản lý, hưởng lợi từ vườn cây nhận khoán của Công ty. Do đó, Công ty Cổ phần cà phê T đã khởi kiện ông Nguyễn Văn G đến Tòa án. Nguyện vọng của Công ty đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết:
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016 giữa ông Nguyễn Văn G với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T).
Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả lại toàn bộ diện tích đất và vườn cây cho Công ty Cổ phần cà phê T với diện tích 9.590m2, diện tích bờ lô 1.393m2, tại thửa số 97, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19/5. Địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận: Phía Bắc giáp: Thửa số 92 (người nhận khoán ông Bùi Tiến L); Phía Nam giáp: Thửa số 108 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn D); Phía Đông giáp: Thửa số 98 (người nhận khoán ông Trịnh Xuân V (Trịnh Văn V)); Phía Tây giáp: Thửa số 96 (người nhận khoán ông Hà Huy T).
- Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 7.948 kg (bảy nghìn, chín trăm bốn mươi tám kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018- 2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022). Quy đổi thành tiền tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 83.672.000 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền thuê đất (truy thu từ năm 2016-2017) và trả tiền thuê đất 04 năm (2018, 2019, 2020, 2021) với tổng tiền là 5.767.962 đồng.
Theo đơn khởi kiện Công ty yêu cầu ông G trả tiền thuê đất phần 49% của ông về Công ty với số tiền là: 5.763.162 đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào diện tích nhận khoán và diện tích bờ lô mà Công ty đã giao cho ông nên số liệu mà Công ty đã tính toán khi khởi kiện có sự sai số. Do đó, số tiền thuê đất thực tế mà ông G phải nộp phần 49% của ông cho Công ty theo Thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk là 5.767.962 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền khấu hao kênh mương, hồ đập của năm 2018 và năm 2019 là: 959.000 đồng (chín trăm năm mươi chín nghìn đồng).
- Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, vào ngày 28/7/2022 Công ty có đơn khởi kiện bổ sung đối với ông Nguyễn Văn G, yêu cầu ông phải bồi thường 100% trị giá 68 cây muồng do ông tự ý chặt, khai thác. 68 cây muồng có tổng trị giá là 192.423.000 đồng (theo kết quả định giá tài sản mà Hội đồng định giá đã định giá). Tuy nhiên, tại phiên tòa Công ty chỉ yêu cầu ông G bồi thường phần 70% của Công ty cho Công ty với số tiền là 134.696.100 đồng (một trăm ba mươi triệu, sáu trăm chín mươi sáu nghìn, một trăm đồng) (tương ứng 70% x 192.423.000 đồng).
Đối với số tiền còn lại 57.726.900 đồng (tương ứng 30% x 192.423.000 đồng) trị giá của 68 cây muồng đen trồng năm 1987 (phần 30% của ông G) thì Công ty không yêu cầu ông phải bồi thường nữa. Nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền này và không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền này. Ngoài ra Công ty không có yêu cầu gì thêm.
* Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn G: Trong quá trình giải quyết vụ án ông G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông cố tình vắng mặt, không tham gia tố tụng nên Tòa án không ghi được lời khai của ông.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thành phần Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đúng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Đối với bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do là vi phạm quy định tại các Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506, 507, 508, 510, 511 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT- BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T:
1.1 Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 7.948 kg (bảy nghìn, chín trăm bốn mươi tám kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018- 2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Quy đổi thành tiền là: 83.672.000 đồng (tám mươi ba triệu, sáu trăm bảy mươi hai nghìn đồng).
1.2 Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền thuê đất phần 49% (truy thu từ năm 2016-2017) và trả tiền thuê đất 04 năm (2018, 2019, 2020, 2021) với tổng tiền là 5.767.962 đồng (năm triệu, bảy trăm sáu mươi bảy nghìn, chín trăm sáu mươi hai đồng).
1.3 Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho Công ty Cổ phần cà phê T các năm 2018, 2019 với tổng số tiền 959.000 đồng (chín trăm năm mươi chín nghìn đồng).
1.4 Buộc ông Nguyễn Văn G phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 68 cây muồng đen trồng năm 1987 phần 70% của Công ty với số tiền 134.696.100 đồng (một trăm ba mươi bốn triệu, sáu trăm chín mươi sáu nghìn, một trăm đồng).
1.5 Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T) với ông Nguyễn Văn G.
Buộc ông Nguyễn Văn G có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận khoán, diện tích đất bờ lô và tài sản trên đất đã nhận khoán theo hợp đồng đã ký kết , cụ thể: Diện tích cà phê giao khoán với diện tích 9.590m2, diện tích bờ lô 1.393m2, tại thửa đất số 97, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19/5. Địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận: Phía Bắc giáp: Thửa số 92 (người nhận khoán ông Bùi Tiến L); Phía Nam giáp: Thửa số 108 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn D); Phía Đông giáp: Thửa số 98 (người nhận khoán ông Trịnh Xuân V (Trịnh Văn V)); Phía Tây giáp: Thửa số 96 (người nhận khoán ông Hà Huy T).
Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T toàn bộ tài sản là cây trồng tạo dựng trên diện tích đất mà ông đã nhận khoán của Công ty, bao gồm: 900 cây cà phê vối trồng năm 1987; 38 cây muồng đen (trong đó: 12 cây trồng năm 2012, 26 cây trồng năm 2015); 30 cây tiêu trồng năm 2019.
Buộc ông Nguyễn Văn G phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 40 cây sầu riêng DoNa ghép (20 cây trồng năm 2019, 20 cây trồng năm 2020).
Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất cho ông Nguyễn Văn G với tổng số tiền là: 62.478.691 đồng (sáu mươi hai triệu, bốn trăm bảy mươi tám nghìn, sáu trăm chín mươi mốt đồng). Bao gồm: 49% trị giá cây cà phê là 47.220.075 đồng; 49% trị giá cây muồng đen trồng năm 2012 là 459.816 đồng; 100% trị giá cây muồng đen trồng năm 2015 là 2.033.200 đồng; 100% trị giá cây tiêu 12.765.600 đồng.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần cà phê T đối với yêu cầu bồi thường trị giá 30% của 68 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ với số tiền là 57.726.900 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn thì Hội đồng xét xử xác định đây là Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản. Bị đơn ông Nguyễn Văn G có địa chỉ tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng ông vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung: Qua xem xét Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016 giữa Công ty TNHH MTV cà phê T với ông Nguyễn Văn G, Hội đồng xét xử xét thấy: Đây là hợp đồng song vụ có thời hạn, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng các bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng hai bên đã ký kết không vi phạm pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Mặt khác, trong quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán, ông Nguyễn Văn G đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký kết với Công ty kể từ lúc ký kết cho đến hết niên vụ cà phê 2017-2018. Do đó, việc thỏa thuận giữa Công ty với ông Nguyễn Văn G tại Hợp đồng số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016 là căn cứ để giải quyết vụ án và là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 7.948kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019, 2019- 2020, 2020-2021, 2021-2022). Hội đồng xét xử thấy: theo điểm c khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn đã ký thì bên B (ông G) có nghĩa vụ “Thực hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định”. Năm 2019-2020 hết thời hạn hợp đồng, Công ty đã có thông báo yêu cầu ông cùng Công ty chấm dứt, thanh lý hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng ông không hợp tác. Ông vẫn trực tiếp quản lý vườn cây nhận khoán và hưởng lợi từ vườn cây từ năm 2019-2020 cho đến nay.
Quá trình giải quyết vụ án ông G không hợp tác làm việc. Căn cứ bảng kê chi tiết công nợ thể hiện từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2021-2022 ông G chưa đóng sản lượng cà phê quả tươi cho Công ty là 7.948kg, cụ thể: niên vụ năm 2018-2019 theo hợp đồng ông G phải nộp về cho Công ty 2.291kg cà phê quả tươi, ông đã nộp 1.216kg và còn nợ 1.075kg. Niên vụ 2019-2020 mặc dù đã hết hạn hợp đồng, Công ty đã thông báo nhiều lần để ông ký kết lại hợp đồng hoặc thanh lý, chấm dứt hợp đồng nhưng ông không hợp tác mà vẫn canh tác trên vườn cây, thu sản phẩm nên ông phải có nghĩa vụ nộp sản lượng cho Công ty tương đương với sản lượng niên vụ cuối (2018-2019) theo hợp đồng là 2.291kg cà phê quả tươi/1niên vụ. Như vậy, niên vụ năm 2019-2020 ông nộp 2.291kg, niên vụ 2020-2021 nộp 2.291kg, niên vụ 2021- 2022 nộp 2.291kg. Do ông G không đóng sản lượng cho Công ty nên đã vi phạm Điều 3 của hợp đồng giao khoán đã ký kết. Do đó, HĐXX cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T, buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 7.948kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Giá cà phê tại thời điểm xét xử sơ thẩm là: (47.900đồng/kg : 4,55kg) x 7.948kg = 83.672.000 đồng (tám mươi ba triệu, sáu trăm bảy mươi hai nghìn đồng).
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền thuê đất của ông phần 49% (truy thu từ năm 2016-2017) và trả tiền thuê đất 04 năm (2018, 2019, 2020, 2021) với tổng tiền là 5.767.962 đồng, Hội đồng xét xử thấy: tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn đã ký kết giữa Công ty với ông G quy định về nghĩa vụ của bên B thì bên B có nghĩa vụ “Nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho nhà nước, theo tỷ lệ 51-49%, phần bên B 49% nộp vào tháng 11 trong năm thông qua bên A”. Tuy nhiên, kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến khi hết hạn hợp đồng vào năm 2018 thì ông chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty, từ năm 2019 cho đến năm 2021 và đến nay ông không chịu thanh lý chấm dứt hợp đồng mà vẫn trực tiếp quản lý, hưởng lợi từ vườn cây trong khi tiền thuê đất phần 49% ông không chịu trả theo hợp đồng đã ký kết để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất vào Ngân sách nhà nước theo quy định. Căn cứ theo các thông báo thuế của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk gửi Công ty yêu cầu nộp tiền thuê đất, căn cứ vào diện tích nhận khoán và diện tích bờ lô mà ông G đã nhận khoán của Công ty thì ông phải có trách nhiệm nộp tiền thuê đất phần 49% cho Công ty tuy nhiên ông không nộp nên Công ty khởi kiện đối với ông là có căn cứ chấp nhận. Cụ thể như sau:
Nguyễn Văn G. Đơn vị: Đội 19/5, thửa số 97, Tờ bản đồ số 18, xã H |
Thời gian thu |
Số tiền thuê đất thu 100%/ha |
Diện tích (Đvt: ha) |
Phần 49% |
Thành tiền (Đvt: Đồng) |
2016 |
1,786,739 |
1.0983 |
49% |
961,564 |
|
2017 |
1,786,739 |
1.0983 |
49% |
961,564 |
|
2018 |
1,786,748 |
1.0983 |
49% |
961,569 |
|
2019 |
1,786,748 |
1.0983 |
49% |
961,569 |
|
2020 |
1,785,408 |
1.0983 |
49% |
960,848 |
|
2021 |
1,785,408 |
1.0983 |
49% |
960,848 |
|
Tổng cộng: |
5,767,962 |
Như vậy, tổng tiền thuê đất cần buộc ông Nguyễn Văn G phải nộp phần 49% của ông cho Công ty là 5.767.962 đồng (năm triệu, bảy trăm sáu mươi bảy nghìn, chín trăm sáu mươi hai đồng).
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền khấu hao kênh mương hồ đập tưới cho vườn cà phê năm 2018 và năm 2019 với tổng số tiền 959.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy:
Tại phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt theo Quyết định số 1399/QĐ-UBND ngày 08/6/2011 thể hiện việc thu sản lượng khoán 700kg cà phê nhân xô/ha là dựa vào năng suất, sản lượng giao khoán của phương án hợp đồng hợp tác đầu tư phân chia sản phẩm 51%- 49% từ năng suất 2.800kg nhân/ha, được phân chia Công ty phần 51% 1.428kg, người lao động 1.372kg. Về chi phí sản xuất trên 01ha Công ty phải chịu 51%, người lao động phải chịu 49%. Theo quyết định trên Công ty thực hiện khoán gọn các khoản chi phí 51% đáng lẽ Công ty phải chịu cho người lao động (bao gồm 11 mục chi phí trong đó có tiền khấu hao kênh mương), khi nộp sản lượng người lao động sẽ được trừ đi 700kg/ha tương đương 51% chi phí Công ty phải chịu. Như vậy, thay vì người lao động phải nộp 51% sản lượng về cho Công ty tương đương 1.428kg (tỷ lệ Công ty được hưởng) thì người lao động chỉ phải nộp 1.428kg - 713kg (phần khoán gọn) = 715kg (quy tròn 700kg cà phê nhân/ha). Do đó, ngoài phần 49% chi phí phải chịu người lao động phải chịu luôn phần 51% chi phí đầu tư của Công ty.
Chi phí khấu hao hồ đập kênh mương là 500.000đồng/ha/năm (chi phí 100% trên vườn cây). Như vậy, phần 51% của Công ty là 255.000đồng/ha/năm, còn lại phần 49% của người nhận khoán là 245.000đồng/ha/năm. Tuy nhiên, Công ty đã khoán và trừ sản lượng cho người lao động thì ngoài 245.000đồng (49%) người lao động phải đóng thêm khoản 255.000đồng (51%) phần của Công ty.
Như vậy việc thu tiền khấu hao kênh mương hồ đập được tính theo mức 500.000đồng/ha/năm thể hiện tại Bảng phương án khoán. Căn cứ vào diện tích ông ông G đã nhận khoán của Công ty để tính như sau: Năm 2018, năm 2019: tiền khấu hao kênh mương hồ đập là: 0.959ha x 500.000đồng/ha x 02 năm = 959.000 đồng.
Do đó, Công ty khởi kiện yêu cầu ông trả tiền khấu hao kênh mương, hồ đập của năm 2018 và năm 2019 với tổng số tiền 959.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.
[2.4] Xét yêu cầu khởi kiện bổ sung về việc buộc ông Nguyễn Văn G phải đền bù thiệt hại cho Công ty do hành vi tự ý chặt phá chiếm đoạt 68 cây muồng đen trồng năm 1987 (mục đích chắn gió và che bóng cho cây cà phê) phần 70% của Công ty với số tiền 134.696.100 đồng, Hội đồng xét xử thấy:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng đã ký kết có quy định về điều khoản cam kết chung thì “Công ty thống nhất quản lý cây muồng đen hiện có trên lô cà phê giao khoán, nếu vì lý do quá dày rợp, già cỗi phải cắt tỉa hoặc khi vườn cây thanh lý thì công ty sẽ tổ chức kiểm kê, lập thủ tục bán theo phương thức đấu thầu…”. Quá trình làm việc tại Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để ông G đến Tòa án tham gia tố tụng theo nội dung khởi kiện bổ sung của nguyên đơn nhưng ông không đến để làm việc do đó Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông về việc ông tự ý chặt hạ cây muồng của Công ty hay không. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào hợp đồng mà ông và Công ty đã xác lập cùng các tài liệu chứng cứ, lời khai do Công ty cung cấp để xem xét và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty. Do Tòa án không tiến hành thẩm định tại chỗ được nên dựa vào số lượng cây do Công ty cung cấp đã xác định thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 68 cây muồng trồng năm 1987 của ông G theo kết quả định giá ngày 18/8/2022 có giá 192.423.000 đồng.
Căn cứ khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng và tại mục 7.2.1.2 của Bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được UBND tỉnh phê duyệt theo Quyết định số 1399/QĐ-UBND ngày 08/6/2011, quy định: Đối với cây muồng đen trồng trên lô cà phê từ năm 1993 trở về sau này khi cắt tỉa hoặc thanh lý thì phân chia theo tỷ lệ 51%-49%; Đối với cây muồng đen trồng trên lô cà phê từ năm 1992 trở về trước thì chủ hộ được hưởng 30% tổng giá trị, công ty hưởng 70% tổng giá trị.
Như vậy, đối với cây muồng đen được trồng năm 1987 nhằm mục đích: làm cây chắn gió và che bóng cho cây cà phê theo quy trình kỹ thuật. Hiện đã bị ông G tự ý cắt hạ 68 cây (Công ty có lập biên bản) với tổng khối lượng gỗ là 41,65m3, có tổng trị giá là 192.423.000 đồng và căn cứ vào khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng để xem xét chia theo tỷ lệ 70%-30%. Do đó, phần 70% của Công ty là 134.696.100 đồng (tương ứng 70% x 192.423.000 đồng) và phần 30% của ông G là 57.726.900 đồng (tương ứng 30% x 192.423.000 đồng).
Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty về việc buộc ông Nguyễn Văn G phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 68 cây muồng đen phần 70% của Công ty với số tiền là 134.696.100 đồng.
Đối với phần 30% còn lại với số tiền 57.726.900 đồng (tương ứng 30% x 192.423.000 đồng) là trị giá của 68 cây muồng đen đã bị ông G tự ý chặt, thiệt hại thì tại phiên tòa Công ty không yêu cầu ông phải bồi thường và không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền này. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 57.726.900 đồng. Nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
[2.5] Xét yêu cầu khởi kiện về việc chấm dứt hợp đồng khoán gọn giữa ông Nguyễn Văn G với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T) theo Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016, Hội đồng xét xử thấy: tại điểm f khoản 1 Điều 2 của Hợp đồng quy định về quyền và nghĩa vụ của bên A (Công ty TNHH MTV cà phê T) thì bên A có quyền “Hủy bỏ hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán khi bên nhận khoán vi phạm hợp đồng…”. Và tại khoản 5 Điều 6 của Hợp đồng quy định về điều khoản cam kết chung có nêu “Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên B không hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm cà phê theo định mức hàng năm, thì bên A có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ và đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi vườn cây cà phê giao khoán, tiến hành giao cho người khác hợp đồng”.
Như vậy, việc ông G không đóng sản lượng cho Công ty, không nộp tiền thuê đất phần 49% cho Công ty, không trả tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho Công ty theo thỏa thuận và tự ý chặt hạ cây muồng đen của Công ty là vi phạm hợp đồng khoán gọn đã ký kết, đây là lỗi hoàn toàn thuộc về ông G nên Công ty có quyền chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán. Căn cứ theo quy định tại Điều 511 của Bộ luật dân sự 2005 thì Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện chấm dứt hợp đồng, buộc ông G phải trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận khoán và diện tích đất bờ lô là đúng quy định của pháp luật. Cụ thể buộc ông Nguyễn Văn G trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T diện tích cà phê giao khoán 9.590m2, diện tích bờ lô 1.393m2. Thửa đất số 97, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19/5. Địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận: Phía Bắc giáp: Thửa số 92 (người nhận khoán ông Bùi Tiến L); Phía Nam giáp: Thửa số 108 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn D); Phía Đông giáp: Thửa số 98 (người nhận khoán ông Trịnh Xuân V (Trịnh Văn V)); Phía Tây giáp: Thửa số 96 (người nhận khoán ông Hà Huy T).
- Về giải quyết hậu quả khi chấm dứt hợp đồng giao khoán: Tại biên bản định giá tài sản ngày 18/8/2022 thì tổng giá trị tài sản trên đất (hiện có) gồm: cây cà phê, cây trồng khác (cây muồng đen, cây tiêu, cây sầu riêng) có trị giá là: 142.600.700 đồng (một trăm bốn mươi hai triệu, sáu trăm nghìn, bảy trăm đồng); tổng giá trị của cây muồng đen đã bị ông Nguyễn Văn G tự ý chặt và chiếm dụng gỗ tròn (hiện không còn) theo xác định giá có trị giá là 192.423.000 đồng (một trăm chín mươi hai triệu, bốn trăm hai mươi ba nghìn đồng).
Theo quy định tại Điều 1 của Hợp đồng có nêu “Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%”. Mặt khác, hợp đồng giao khoán giữa ông G với Công ty hai bên không thỏa thuận về mức độ khấu hao của tài sản. Và tại khoản 1 Điều 6 của hợp đồng, khi chấm dứt hợp đồng giữa các bên thì Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại cho ông G phần 70% trị giá cây muồng đen (đối với cây muồng đen trồng từ năm 1992 trở về trước) và 49% đối với cây muồng đen trồng từ năm 1993 trở về sau này). Vì vậy, khi buộc ông G trả lại vườn cây trên diện tích đất nhận khoán thì cần buộc Công ty có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất (cây cà phê) phần 49% cho ông G, đối với cây muồng được trồng năm 1987 hiện còn thì chia theo tỷ lệ 30%-70%, đối với cây muồng đen trồng năm 2012 chia theo tỷ lệ 49%-51%; đối với cây muồng đen được trồng năm 2015 Công ty thừa nhận là do ông G tự trồng nên ông G được hưởng 100%. Riêng đối với cây muồng đen trồng năm 1987 mà ông G đã tự ý chặt đã được nêu tại mục [2.4] nên không đề cập.
Đối với các cây trồng khác (gồm cây tiêu, cây sầu riêng) thì các tài sản này do ông G tự trồng trên diện tích đất nhận khoán theo biên bản định giá ngày 18/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản, thì thấy: 30 cây tiêu trồng năm 2019; 40 cây sầu riêng DoNa ghép (20 cây trồng năm 2019, 20 cây trồng năm 2020), có tổng trị giá là 43.261.600 đồng. Đối với các cây trồng này thì thấy: hợp đồng giữa ông G với Công ty hết hạn từ niên vụ năm 2018-2019, từ niên vụ năm 2019-2020 trở đi Công ty đã thông báo nhiều lần yêu cầu ông thanh lý, chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng ông không hợp tác ông vẫn trực tiếp quản lý vườn cây và tự ý trồng 40 cây sầu riêng DoNa ghép (20 cây trồng năm 2019, 20 cây trồng năm 2020) không được Công ty cho phép. Tại phiên tòa, Công ty không đồng ý nhận lại những tài sản này và không phải hoàn trả giá trị đối với cây trồng này. Do đó, khi chấm dứt hợp đồng cần buộc ông G phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 40 cây sầu riêng DoNa ghép (20 cây trồng năm 2019, 20 cây trồng năm 2020). Đối với 30 cây tiêu trồng năm 2019 theo hợp đồng Công ty cho phép ông trồng xen cây tiêu nên khi chấm dứt hợp đồng thì Công ty có trách nhiệm trả lại 100% trị giá của cây tiêu cho ông G. Cụ thể:
Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T toàn bộ tài sản là cây trồng tạo dựng trên diện tích đất mà ông đã nhận khoán của Công ty, bao gồm: 900 cây cà phê vối trồng năm 1987; 38 cây muồng (trong đó: 12 cây trồng năm 2012, 26 cây trồng năm 2015); 30 cây tiêu trồng năm 2019.
Buộc ông Nguyễn Văn G phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 40 cây sầu riêng DoNa ghép (20 cây trồng năm 2019, 20 cây trồng năm 2020).
Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất cho ông Nguyễn Văn G với tổng số tiền là: 62.478.691 đồng (sáu mươi hai triệu, bốn trăm bảy mươi tám nghìn, sáu trăm chín mươi mốt đồng). Bao gồm: 49% trị giá cây cà phê là 47.220.075 đồng; 49% trị giá cây muồng đen trồng năm 2012 là 459.816 đồng; 100% trị giá cây muồng đen trồng năm 2015 là 2.033.200 đồng; 100% trị giá cây tiêu 12.765.600 đồng.
[3] Về các chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản là 4.900.000 đồng, số tiền này nguyên đơn đã nộp. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên căn cứ Điều 157, Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn ông Nguyễn Văn G phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản. Vì vậy, cần buộc ông Nguyễn Văn G phải thanh toán lại cho nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T số tiền 4.900.000 đồng, là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Nguyễn Văn G phải chịu 300.000 đồng án phí không có giá ngạch và 11.255.000 đồng án phí có giá ngạch, theo mức: (83.672.000 đồng + 5.767.962 đồng + 959.000 đồng + 134.696.100 đồng) x 5% = 11.255.000 đồng. Tổng cộng ông Nguyễn Văn G phải chịu 11.555.000 đồng (mười một triệu, năm trăm năm mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty Cổ phần cà phê T số tiền 2.246.000 đồng theo biên lai thu số AA/2021/0016137 ngày 16/5/2022 và số tiền 3.749.000 đồng theo biên lai thu số AA/2021/0016414 ngày 08/8/2022 tiền tạm ứng án phí mà Công ty đã nộp tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc.
[5] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, khoản 2 Điều 227, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506, 507, 508, 510, 511 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003.
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T:
1.1 Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 7.948 kg (bảy nghìn, chín trăm bốn mươi tám kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018- 2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022). Quy đổi thành tiền là: 83.672.000 đồng (tám mươi ba triệu, sáu trăm bảy mươi hai nghìn đồng).
1.2 Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền thuê đất phần 49% (truy thu từ năm 2016-2017) và trả tiền thuê đất 04 năm (2018, 2019, 2020, 2021) với tổng tiền là 5.767.962 đồng (năm triệu, bảy trăm sáu mươi bảy nghìn, chín trăm sáu mươi hai đồng).
1.3 Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho Công ty Cổ phần cà phê T các năm 2018, 2019 với tổng số tiền là 959.000 đồng (chín trăm năm mươi chín nghìn đồng).
1.4 Buộc ông Nguyễn Văn G phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 68 cây muồng đen trồng năm 1987 phần 70% của Công ty với số tiền 134.696.100 đồng (một trăm ba mươi bốn triệu, sáu trăm chín mươi sáu nghìn, một trăm đồng).
1.5 Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 31/2016/HĐ-GK ngày 4/11/2016 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T) với ông Nguyễn Văn G.
Buộc ông Nguyễn Văn G có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận khoán, diện tích đất bờ lô và tài sản trên đất đã nhận khoán theo hợp đồng đã ký kết, cụ thể: Diện tích cà phê giao khoán với diện tích 9.590m2, diện tích bờ lô 1.393m2, tại thửa đất số 97, tờ bản đồ số 18, thuộc đội 19/5. Địa chỉ thửa đất: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận: Phía Bắc giáp: Thửa số 92 (người nhận khoán ông Bùi Tiến L); Phía Nam giáp: Thửa số 108 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn D); Phía Đông giáp: Thửa số 98 (người nhận khoán ông Trịnh Xuân V (Trịnh Văn V)); Phía Tây giáp: Thửa số 96 (người nhận khoán ông Hà Huy T).
Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T toàn bộ tài sản là cây trồng tạo dựng trên diện tích đất mà ông đã nhận khoán của Công ty, bao gồm: 900 cây cà phê vối trồng năm 1987; 38 cây muồng đen (trong đó: 12 cây trồng năm 2012, 26 cây trồng năm 2015); 30 cây tiêu trồng năm 2019;
Buộc ông Nguyễn Văn G phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 40 cây sầu riêng DoNa ghép (20 cây trồng năm 2019, 20 cây trồng năm 2020).
Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất cho ông Nguyễn Văn G với tổng số tiền là: 62.478.691 đồng (sáu mươi hai triệu, bốn trăm bảy mươi tám nghìn, sáu trăm chín mươi mốt đồng). Bao gồm: 49% trị giá cây cà phê là 47.220.075 đồng; 49% trị giá cây muồng đen trồng năm 2012 là 459.816 đồng; 100% trị giá cây muồng đen trồng năm 2015 là 2.033.200 đồng; 100% trị giá cây tiêu 12.765.600 đồng.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần cà phê T đối với yêu cầu bồi thường trị giá 30% của 68 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ, với số tiền là 57.726.900 đồng.
Công ty Cổ phần cà phê T được quyền khởi kiện lại đối với số tiền trên theo quy định của pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Văn G phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 4.900.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản.
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí:
Ông Nguyễn Văn G phải chịu 300.000 đồng án phí không có giá ngạch và 11.255.000 đồng án phí có giá ngạch, theo mức: (83.672.000 đồng + 5.767.962 đồng + 959.000 đồng + 134.696.100 đồng) x 5% = 11.255.000 đồng. Tổng cộng ông Nguyễn Văn G phải chịu 11.555.000 đồng (Mười một triệu, năm trăm năm mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty Cổ phần cà phê T số tiền 2.246.000 đồng theo biên lai thu số AA/2021/0016137 ngày 16/5/2022 và số tiền 3.749.000 đồng theo biên lai thu số AA/2021/0016414 ngày 08/8/2022 tiền tạm ứng án phí mà Công ty đã nộp tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 88/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản
Số hiệu: | 88/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về