Bản án 88/2019/HSST ngày 26/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN - TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 88/2019/HSST NGÀY 26/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2019/HSST ngày 04/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2019/QĐXXST-HS ngày 12/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGÔ THANH T, sinh năm 1993 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Tổ A, khu vực B, phường C, TP. Quy Nhơn, Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Ngô Thanh H, sinh năm 1945 và bà: Nguyễn Thị C, sinh năm 1961; Vợ: Huỳnh Thị Phương T, sinh năm 1995 (đã ly hôn), con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khácAnh Đoàn Minh P Anh Lê Nguyễn Ph

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 09/3/2019, Tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Cảng Quy Nhơn kiểm tra phát hiện Lương Phan Tường V đang tàng trữ ma túy trong người nhằm bán lại cho người khác. Qua kiểm tra phòng trọ của Lương Phan Tường V và Lê Nguyễn Ph thuê ở (số nhà B, đường C, TP. Quy Nhơn), tại đây ngoài thu giữ số ma túy của Ph và V tàng trữ để bán lại thì còn phát hiện Ngô Thanh T có hành vi cất giấu 02 gói nilon có chứa các hạt tinh thể không màu và một viên nén màu xanh ký hiệu EA7, nghi là chất ma túy nên tổ công tác tiến hành lập biên bản thu giữ đưa T về trụ sở làm việc, T khai nhận đó là số ma túy T mua từ TP. Hồ Chí Minh và mang theo người để sử dụng. Qua điều tra xác định, vào ngày 09/3/2019, V và Ph dọn đến thuê trọ tại phòng trọ của nhà B, đường C, TP. Quy Nhơn để ở, Ph nhờ T đến dọn phòng giúp, khi đi T mang theo số ma túy trên. Việc Ph, V bán ma túy Ngô Thanh T không biết.

Tại kết luận giám định số 69/PC09 ngày 12/3/2019 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận:

- Các hạt tinh thể đựng 01 (một) gói nilon lích thước (2,5x1,8)cm ghi thu trong ví da của Ngô Thanh T (ký hiệu A1) gởi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2800 gam là (loại): Ketamine.

- 01 (một) viên nén màu xanh, trên một mặt in chìm chữ “EA7” ghi thu trong ví da của Ngô Thanh T (ký hiệu A2) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4008 gam là (loại): MDMA.

Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã tạm giữ: 01 (một) bì thư dán kín niêm phong dấu tròn của “Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định” bên trong bì thư đựng: 0,1790 gam loại Ketamine mẫu A1 và 0,2600 gam loại MDMA mẫu A2 còn lại sau giám định.

Ngày 09/7/2019, Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn đã xét xử đối với Lê Nguyễn Ph, Lương Phan Tường V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Tại bản cáo trạng số 100/CT-VKSQN ngày 04/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố Ngô Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Ngô Thanh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Ngô Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị HĐXX, áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Thanh T từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo nhận tội, không bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận, xin Tòa giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 09/3/2019, Tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Cảng Quy Nhơn kiểm tra phòng trọ nhà B, đường C, TP. Quy Nhơn thì phát hiện Ngô Thanh T có hành vi cất giấu 02 gói nilon có chứa các hạt tinh thể không màu và một viên nén màu xanh ký hiệu “EA7”, nghi là chất ma túy nên tổ công tác tiến hành lập biên bản thu giữ đưa T về trụ sở làm việc, T khai nhận đó là số ma túy T mang theo người để sử dụng. Tại kết luận giám định số 69/PC09 ngày 12/3/2019 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định xác định: Các hạt tinh thể đựng 01 (một) gói nilon thu trong ví da của Ngô Thanh T là ma túy, có khối lượng 0,2800 gam là (loại): Ketamine; 01 (một) viên nén màu xanh, trên một mặt in chìm chữ “EA7” ghi thu trong ví của da của Ngô Thanh T là ma túy, có khối lượng 0,4008 gam là (loại): MDMA.

Chất MDMA nằm trong danh mục chất ma túy và tiền chất có số thứ tự là 27, danh mục I; Ketamine nằm trong danh mục chất ma túy và tiền chất có số thứ tự là 35, danh mục III, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ là các chất gây nghiện, gây tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người nên Nhà nước độc quyền quản lý, mọi việc cất giữ, mua bán, sử dụng chất này phải theo quy định đặt biệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bị cáo Ngô Thanh T có đầy đủ sức khỏe, năng lực để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên biết rõ điều đó, nhưng xem thường pháp luật, bị cáo vẫn mua ma túy để sử dụng, số ma túy thu giữ của bị cáo với khối lượng là 0,2800 gam là (loại): Ketamine và 0,4008 gam là (loại): MDMA. Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi tàng trữ trái phép 0,4008 gam MDMA và 0,2800 gam Ketamine của bị cáo Triệu thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, bị cáo Ngô Thanh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo Ngô Thanh T gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên cũng xem xét: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo tốt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Tuy nhiên theo tài các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra hiện thu giữ số ma túy còn lại sau giám định nên tịch thu tiêu hủy số ma túy trên.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Về vấn đề khác: Bị cáo Ngô Thanh T khai đã mua lại số ma túy thu giữ trên của người tên H ở TP. Hồ Chí Minh, hiện nay Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn chưa xác định được lai lịch của đối tượng này nên tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Ngô Thanh T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một bì thư dán kín niêm phong dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định, bên trong bì thư đựng: 0,1790 gam loại Ketamine mẫu A1 và 0,2600 gam loại MDMA mẫu A2 còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Ngô Thanh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 88/2019/HSST ngày 26/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:88/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;