Bản án 88/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 88/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 102/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Thị Kim E, sinh năm 1974 tại Bến Tre; nơi cư trú khu phố 3, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Bùi Văn T (đã chết) và bà Trần Thị H, sinh năm 1944; bị cáo có chồng là anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1972 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2002 (người bị hại đã chết); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại “có mặt”.

2. Lê Đức T, sinh năm 1986 tại Bạc Liêu; nơi cư trú khóm 02, phường L, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Văn H, sinh năm 1959 và bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1958; bị cáo có vợ là chị Võ Thị Bích V, sinh năm 1990 và 01 người con, sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại “có mặt”.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại cháu Nguyễn Thị Hà G (đã chết)

Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972; nơi cư trú khu phố 3, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (cha ruột của người bị hại) “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lý A M, sinh năm 1957; nơi cư trú thôn Đ, xã Q, huyện T, tỉnh Đắk Nông “có đơn xin xét xử vắng mặt”.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Mạnh L, sinh năm 1957; nơi cư trú tổ 02, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 02/3/2019 Lê Đức T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios E màu trắng biển số 48A-062.64 chở anh Nguyễn Mạnh L lưu thông trên Quốc lộ 14 từ Thành phố Hồ Chí Minh về tỉnh Đắk Nông. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 14 hướng Chơn Thành đến Đồng Xoài, thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ xảy ra va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo biển số 93Z1-3284 do Bùi Thị Kim E điều khiển (chưa có giấy phép lái xe theo quy định) chở theo con gái Nguyễn Thị Hà G, sinh năm 2002 đi cùng chiều đang rẽ trái băng qua đường. Tai nạn xảy ra làm cháu G bị thương và chết trên đường đi cấp cứu, Bùi Thị Kim E bị thương tích gãy chân trái, xe mô tô bị hư hỏng nặng, xe ô tô bị hư hỏng nhẹ.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vào lúc 17 giờ 00 phút ngày 02 tháng 3 năm 2019, xác định như sau:

Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là đường Quốc lộ 14, thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Đường Quốc lộ 14 là đường đôi có dải phân cách cố định ở giữa chia mặt đường thành hai chiều xe chạy riêng biệt mỗi chiều đường rộng 15m và được chia thành 03 làn đường. Làn đường thứ nhất rộng 04m dành cho các loại xe ô tô con, xe ô tô khách dưới 30 chỗ ngồi, xe ô tô tải dưới 3,5 tấn. Làn đường thứ hai rộng 04m dành cho các loại xe ô tô con, xe ô tô khách trên 30 chỗ ngồi và ô tô tải trên 3,5 tấn. Làn đường còn lại rộng 07m dành cho các loại xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe thô sơ. Mặt đường được trải nhựa bằng phẳng, tầm nhìn không bị hạn chế.

Ghi nhận việc đánh số thứ tự theo số tự nhiên vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết như sau: Vết cày xe mô tô biển số 93Z1-3284 được đánh số thứ tự là (1). Vùng mảnh vỡ được đánh số thứ tự là (2). Vết máu được đánh số thứ tự là (3). Xe mô tô biển số 93Z1-3284 được đánh số thứ tự (4). Xe ô tô biển số 48A-062.64 được đánh số thứ tự (5).

Chọn mép đường bên phải theo hướng Chơn Thành – Đồng Xoài làm mép lề chuẩn. Chọn trụ điện số 64 nằm trên mép lề chuẩn làm mốc vật chuẩn.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông để lại như sau:

+ 01 vết cày được xác định là của xe mô tô biển số 93Z1-3284 được đánh số thứ tự (1). Vết cày (1) nằm trên mặt đường Quốc lộ 14 có chiều dài hướng Chơn Thành – Đồng Xoài. Vết cày (1) có dạng nét đứt và có chiều dài 22,8m.

+ 01 vùng mảnh vỡ được đánh số thứ tự (2). Vùng mảnh vỡ (2) nằm trên mặt đường Quốc lộ 14 và có kích thước (1,8 x 1,1)m.

+ 01 vết máu được đánh số thứ tự là (3) có kích thước (1,7 x 1,2)m, nằm trên mặt đường Quốc lộ 14.

+ 01 xe mô tô biển số 93Z1-3284 được đánh số thứ tự là (4) nằm ngã nghiêng bên phải, đầu xe hướng về phía Đồng Xoài, đuôi xe hướng về Chơn Thành.

+ 01 xe ô tô biển số 48A-062.64 được đánh số thứ tự (5). Xe ô ô (5) đang đỗ trên mặt đường Quốc lộ 14, phần đầu xe hướng Đồng Xoài, phần đuôi xe hướng về Chơn Thành.

+ Từ tâm vết cày (1) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 12,1m. Từ tâm vết cày (1) đo tới dải phân cách cố định có khoảng cách 8,7m.

+ Từ tâm trục mảnh vỡ (2) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 13m. Từ tâm vết cày (1) đo tới tâm vùng mảnh vỡ (2) có khoảng cách 13,1m.

+ Từ tâm vết máu (3) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 16,1m. Từ tâm vùng mảnh vỡ (2) đo tới tâm vết máu (3) có khoảng cách 5,2m.

+ Từ tâm trục bánh xe phía trước của xe mô tô (4) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 17,8m. Từ tâm trục bánh xe phía sau của xe mô tô (4) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 17,7m. Từ tâm vết máu (3) đo tới tâm trục bánh xe phía sau của xe mô tô (4) có khoảng cách 4,5m.

+ Từ tâm trục bánh xe phía trước bên phải của xe ô tô (5) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 9,5m. Từ tâm trục bánh xe phía sau bên phải của xe ô tô (5) đo vuông góc vào mép lề chuẩn một đường thẳng dài 9,6m. Từ tâm trục bánh xe phía sau của xe mô tô (4) đo tới tâm trục bánh xe phía sau bên trái của xe ô tô (5) có khoảng cách là 6,5m.

+ Từ tâm trục bánh xe phía sau bên trái của xe ô tô (5) đo tới dải phân cách cố định có khoảng cách 4,9m. Từ tâm trục bánh xe phía trước bên phải của xe ô tô (5) đo tới mốc vật chuẩn có khoảng cách 14,9m.

+ Từ tâm vết cày (1) đo tới tâm trục bánh xe phía sau bên phải của xe ô tô (5) có khoảng cách 22,1m.

+ Từ cột biển báo nguy hiểm (người đi bộ cắt ngang) đo tới đầu vạch sơn dành cho người đi bộ có khoảng cách 116,1m. Từ mốc vật chuẩn đo vuông góc ra mép lề chuẩn một đường thẳng dài 4,4m.

Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông như sau:

 * Xe ô tô biển số 48A-062.64: Cửa kính chắn gió phía trước bị bể vỡ có kích thước (0,5 x 0,6)m. Nắp capo phía trước bị bể, móp méo không rõ hình dạng kích thước ( 0,7 x 0,9)m. Lô gô phía trước bị bung khỏi vị trí cố định kích thước (0,15 x 0,15)m. Lưới che két nước bị bung khỏi vị trí cố định kích thước (1,0 x 0,3)m. Ba đơ sóc phía trước bị bung khỏi vị trí kích thước (1,1 x 0,2)m. Tai xe phía trước bên trái bị bể móp méo không rõ hình dạng kích thước (0,4 x 0,4)m. Dấu vết sinh học màu đỏ bám trên trụ xe phía trước có kích thước (0,004m). Bánh xe phía trước bên trái bị trầy xước kích thước (0,005 x 0,002)m. Từ phần đầu xe đo vuông góc xuống mặt đường có chiều dài 0,8m.

Ghi nhận an toàn kỹ thuật của phương tiện: Tiến hành mở ổ khóa điện trên xe ô tô biển số 48A-062.64 để tiến hành khám nghiệm các hệ thống an toàn kỹ thuật của phương tiện: Hệ thống lái đang hoạt động; hệ thống phanh đang còn hoạt động; hệ thống treo đang còn hoạt động; hệ thống côn, ga, số đang còn hoạt động; đèn, còi còn đầy đủ chi tiết; gương còn đầy đủ chi tiết; gạt nước vẫn còn hoạt động.

* Xe mô tô biển số 93Z1-3284: Tay cầm bên phải bị mài mòn có kích thước (0,04 x 0,004)m. Gác để chân phía sau bên trái bị gãy rơi khỏi vị trí cố định kích thước (0,1 x 0,1)m. Bộ phận máy bị vỡ có kích thước (0,1 x 0,15)m. Ốp bảo vệ bên trái bị bung có kích thước (0,5 x 0,001)m. Đèn tín hiệu phía sau bên trái bị vỡ kích thước (0,1 x 0,150m.

Bộ phận để chân bên phải bị trầy xước kích thước (0,4 x 0,002)m. Ốp bảo vệ bộ phận giảm thanh bị trầy xước kích thước (0,5 x 0,1)m. Biển số phía sau bị bể vỡ kích thước (0,15 x 0,15)m. Ốp hông xe bên trái bị bể có kích thước (0,002 x 0,003)m. Yếm xe bị gãy rơi khỏi vị trí cố định kích thước (0,5 x 0,25)m. Ốp hông xe bên phải bị mài mòn kích thước (0,2 x 0,001)m.

Ghi nhận an toàn kỹ thuật của phương tiện: Phương tiện bị hư hỏng nặng. Hệ thống an toàn kỹ thuật không còn hoạt động.

Tại bản Kết luận giám định số 71/2019/GĐPY ngày 05/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, kết quả giám định: Nguyễn Thị Hà G, sinh năm: 2002 bị chấn thương sọ não, vỡ xương hộp sọ dẫn đến tử vong.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo màu đen đỏ, biển số 93Z1-3284; 01 xe ô tô biển số 48A-062.64 nhãn hiệu Toyota Vios màu trắng; 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2 số 950078000962 mang tên Lê Đức T, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 007604; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường số KC 3685042; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số 18630718.

Ngày 24/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe ô tô biển số 48A-062.64; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 007604; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường số KC 3685042 và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số 18630718 cho chủ sở hữu bà Lý A M;

Ngày 11/6/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bị cáo Bùi Thị Kim E xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo màu đen đỏ biển số 93Z1-3284.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 23/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Bùi Thị Kim E về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Đức T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thị Kim E mức án từ 30 đến 36 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm.

Áp dụng khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Đức T mức án từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 đến 30 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo Lê Đức T 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2 số 950078000962 mang tên Lê Đức T.

Bị cáo Em và Thịnh tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 23/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng, phù hợp với kết luận điều tra, kết luận giám định pháp y về tử thi, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, các dấu vết để lại hiện trường, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Mặc dù chưa có giấy phép lái xe theo quy định nhưng khoảng 16 giờ 30 phút ngày 02/3/2019, Bùi Thị Kim E vẫn điều khiển xe mô tô Yamaha NouVo biển số 93Z1-3284 chở con gái là cháu Nguyễn Thị Hà G ngồi phía sau lưu thông trên đường Quốc lộ 14 hướng Chơn Thành đi Đồng Xoài. Khi đi đến đoạn đường thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ do rẻ trái chuyển hướng qua đường không quan sát, không đảm bảo an toàn nên đã bị xe ô tô biển số 48A-062.64 do Lê Đức T điều khiển cùng chiều không thực hiện việc chấp hành biển báo hiệu gây tai nạn, hậu quả cháu Nguyễn Thị Hà G tử vong.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 71/2019/GĐPY ngày 05/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vùng trán, mặt sây sát bầm máu da; bầm máu da vùng trán lan tỏa; vỡ xương trán.

2. Nguyên nhân nạn nhân Nguyễn Thị Hà G chết do chấn thương sọ não gây vỡ xương hộp sọ dẫn đến tử vong.

Căn cứ vào hành vi trên của các bị cáo Bùi Thị Kim E và Lê Đức T đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo E tham gia giao thông khi không có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe rẻ trái qua đường không đảm bảo an toàn gây tai nạn nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự; đối với bị cáo Lê Đức T không chú ý quan sát, không thực hiện việc chấp hành biển báo hiệu đường bộ dẫn đến tai nạn nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người bị hại và các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn giao thông. Các bị cáo là người đã thành niên, khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên đường các bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc không có giấy phép lái xe theo quy định và việc không chấp hành các quy định khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên đường là hành vi vi phạm pháp luật nhưng do chủ quan, không chú ý quan sát đã dẫn đến hậu quả cái chết của người bị hại. Do đó cần thiết phải có mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên xét thấy các bị cáo không có tình tiết tăng nặng, đồng thời có các tình tiết giảm nhẹ như: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; người đại diện hợp pháp của người bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; các bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo T đã bồi thường khắc phục thiệt hại cho gia đình người bị hại; gia đình bị cáo E có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập không ổn định. Do đó bị cáo E được xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo T được xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy các bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, do đó không cần thiết phải cách ly các bị cáo để giáo dục mà chỉ cần lên cho bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Do người đại diện hợp pháp của người bị hại cháu Nguyễn Thị Hà G là anh Nguyễn Văn H không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường gì thêm ngoài số tiền 80.000.000 đồng mà bị cáo T đã bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng vụ án: Cần trả lại cho bị cáo Lê Đức T 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2 số 950078000962 mang tên Lê Đức T.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Kim E, bị cáo Lê Đức T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Kim E 03 (ba) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tuyên giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Áp dụng khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Đức T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tuyên giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường L, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự

3. Về trách nhiệm dân sự:

Do các bên không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo Lê Đức T 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2 số 950078000962 mang tên Lê Đức T.

5. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo E và bị cáo T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 88/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:88/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;