Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 88/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 369/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thùy D – sinh năm: 1988.

HKTT: 17 Tổ 2, Ấp TT, xã PL, huyện TP, Đồng Nai.

Tm trú: 111/24/3 LTT, Phường TTH, Quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Anh Đặng Quốc V – sinh năm: 1986.

HKTT: 85 Tổ 3, Ấp TL, xã TS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

(Chị D và anh V có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Hoàng Thị Thùy D trình bày:

Chị và anh Đặng Quốc V tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2007 và được Ủy ban nhân dân xã TS cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/12/2007. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh V thường xuyên đánh đập vợ con. Do đó trong cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc. Mâu thuẫn kéo dài từ năm 2009 đến năm 2018 thì trầm trọng và vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay. Do tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Đặng Quốc V. Về con chung: Chị và anh V có 02 con chung là:

- Đặng Hoàng Trúc N – sinh ngày: 02/3/2009.

- Đặng Hoàng Phúc K – sinh ngày: 06/8/2016.

Từ khi chị và anh V sống ly thân nhau đến nay, cháu N sống cùng chị còn cháu K sống cùng anh V.

Khi ly hôn, chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và đồng ý giao cháu K cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Bị đơn nh Đặng Quốc V trình bày:

Anh và chị Hoàng Thị Thùy D tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2007 và được Ủy ban nhân dân xã TS cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/12/2007. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Ngoài ra, do chị D không lo làm ăn và không chăm sóc cho gia đình. Do đó cuộc sống chung thường xuyên cãi vã, xô xát nhau. Từ năm 2018 vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay. Nay chị D yêu cầu ly hôn, mặc dù cuộc sống chung vợ chồng không còn hạnh phúc nhưng do anh theo đạo Công giáo không cho phép ly hôn nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị D có 02 con chung là:

- Đặng Hoàng Trúc N – sinh ngày: 02/3/2009.

- Đặng Hoàng Phúc K – sinh ngày: 06/8/2016.

Từ khi anh và chị D sống ly thân nhau đến nay, cháu N sống cùng chị D còn cháu K sống cùng anh.

Khi ly hôn, anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và đồng ý giao cháu N cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị D đã cung cấp những tài liệu, chứng cứ sau: CMND của chị D và anh V (bản sao); Sổ hộ khẩu của chị D (bản sao); Sổ tạm trú (bản sao); Đơn xin xác nhận (bản chính); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh của con chung (bản sao).

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Biên bản lấy lời khai ngày 18/10/2019 đối với anh Đặng Quốc V; Biên bản thể hiện nguyện vọng của con chung đối với cháu Đặng Hoàng Trúc N; Biên bản xác minh ngày 18/10/2019 đối với bà Huỳnh Thị Thùy D1, ông Trần Viết H, bà Hồ Thị L. Các tài liệu, chứng cứ này Tòa án đã ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến củ Kiểm sát viên:

 - Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Xét vợ chồng chị D và anh V đã xảy ra mâu thuẫn, không hòa giải đoàn tụ được. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị D, cho chị Hoàng Thị Thùy D được ly hôn với anh Đặng Quốc V.

+ Về con chung: Đề nghị giao cháu Đặng Hoàng Trúc N cho chị Hoàng Thị Thùy D trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Đặng Hoàng Phúc K cho anh Đặng Quốc V trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị D và anh V kê khai không có, không yêu cầu giải quyết. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

+ Về án phí: Đề nghị buộc chị Hoàng Thị Thùy D phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Nguyên đơn chị Hoàng Thị Thùy D khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết việc nuôi dưỡng con chung đối với bị đơn anh Đặng Quốc V. Anh V đang cư trú tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Chị Hoàng Thị Thùy D và anh Đặng Quốc V là các đương sự trong vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham gia phiên tòa nhưng chị D và anh V đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt chị D và anh V.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh V tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS vào ngày 20/12/2007. Như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp, nay chị D yêu cầu ly hôn với anh V thì Tòa án áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.

Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Chị D yêu cầu ly hôn do anh V thường xuyên đánh đập vợ con. Anh V không đồng ý ly hôn nhưng cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống và chị D không lo làm ăn, chăm sóc cho gia đình. Chị D và anh V đều thừa nhận trong cuộc sống chung thường xuyên cãi vã, xô xát và từ năm 2018 đến nay anh chị sống ly thân nhau. Đồng thời qua xác minh tại địa phương thể hiện đời sống chung của vợ chồng anh chị không hạnh phúc và đã sống ly thân nhau (bút lục 33 – 35).

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy để chị D có điều kiện ổn định cuộc sống của mình nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị D là cho chị được ly hôn với anh V là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về con chung: Chị D và anh V có 02 con chung là:

- Đặng Hoàng Trúc N – sinh ngày: 02/3/2009.

- Đặng Hoàng Phúc K – sinh ngày: 06/8/2016.

Chị D có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và đồng ý giao cháu K cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh V cũng đồng ý về vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con như yêu cầu của chị D.

Xét thấy bản thân chị D và anh V có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Hơn nữa, từ khi chị D và anh V sống ly thân đến nay, cháu N sống cùng chị D, cháu K sống cùng anh V. Ngoài ra, cháu N có nguyện vọng được trực tiếp sống cùng chị D. Vì vậy để tránh xáo trộn cuộc sống của các con chung nên tiếp tục giao cháu N cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu K cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời chị D và anh V không phải cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị D và anh V kê khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Hoàng Thị Thùy D phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn.

[6]. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, do đó được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Thùy D.

Cho chị Hoàng Thị Thùy D được ly hôn anh Đặng Quốc V.

2. Về con chung: Chị D và anh V có 02 con chung là:

+ Đặng Hoàng Trúc N – sinh ngày: 02/3/2009.

+ Đặng Hoàng Phúc K – sinh ngày: 06/8/2016.

Giao cháu Đặng Hoàng Trúc N cho chị Hoàng Thị Thùy D trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Đặng Hoàng Phúc K cho anh Đặng Quốc V trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Chị D và anh V có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự kê khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hoàng Thị Thùy D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị D đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 008430 ngày 09 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.

Chị D và anh V có quyền có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:88/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;