Bản án 87/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 87/2019/HSST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 77/2019/HSST ngày 12 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M, sinh năm 1995 tại Cà Mau. Tên gọi khác: Gù. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp 3, xã T, thành phố C, tỉnh C; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Lớp 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Chinh, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Thảo, sinh năm 1969; tiền sự: Không; tiền án: 01 (Năm 2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành hình phạt xong vào ngày 14/6/2019 chưa được xóa án tích); nhân thân: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, năm 2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích); bị cáo bị bắt ngày 07/7/2019 (theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp số: 195/LBKC-CQCSĐT ngày 06/7/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời). (Bị cáo đang bị tạm giam có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Nguyễn Thị B, sinh năm 1952 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp 6, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018 Nguyễn Văn M bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau kết án 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành hình phạt xong vào ngày 14/6/2019 chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội, cụ thể: Khoảng 09 giờ ngày 05/7/2019 đối tượng Đặng Văn Quân rủ bị cáo Muông đi bắt trộm gà về nhậu và được bị cáo Muông đồng ý. Sau đó Quân điều khiển xe máy biển kiểm soát 69 B1-40524 chở Muông ngồi phía sau mang theo 01 cây nạn thun, 01 bịt đá để làm đạn bắn gà và 01 con gà trống để dành nhử gà, còn Quân mang theo 01 cái bao màu vàng, khi điều khiển xe đến gần Trụ sở văn hóa ấp 6, xã Khánh Bình Đông thì phát hiện có 01 bầy gà (trong đó có 01 con gà trống ở gần bụi chuối), Quân dừng xe lại cho Muông xuống xe đem theo nạn thun bắn gà nhưng không bắn được vì con gà bỏ chạy, Quân tiếp tục điều khiển xe chở Muông đi ra hướng phố Rạch Cui được khoảng 100 mét thì tiếp tục phát hiện có 01 con gà trống, Quân dừng xe lại cho Muông xuống xe dùng nạn thun bắn con gà lấy bỏ vào bao, sau đó Quân chở Muông cầm theo con gà vừa bắn được tiếp tục chạy về hướng phố Rạch Cui được khoảng 01 kilômét thì bị người dân phát hiện báo Công an xã truy tìm bắt được Muông và Quân.

Ti kết luận định giá tài sản bị thiệt hại số: 34 ngày 08/7/2019 của Hội đồng định giá thuộc Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, kết luận: 01 con gà nồi trống có trọng lượng 1,7 kilôgam X giá 110.000 đồng/kilôgam = 187.000 đồng.

Vt chứng: Ngày 05/7/2019, Công an thu giữ 01 con gà trống 1,7 kilôgam (đã trả cho bị hại), 01 còn gà trống của bị cáo Muông (chết và đã tiêu hủy), 01 chiếc xe biển kiểm soát 69B1-40524( đã trả cho chủ sở hữu), 01 cái bao màu vàng, 01 cây nạn thun, 15 cục đá nhỏ.

Tài sản là 01 con gà trống trọng lượng 1,7 kilôgam đã trả cho bị hại Nguyễn Thị B, hiện nay bị hại không yêu cầu về trách nhiệm dân sự, về trách nhiệm hình sự yêu cầu xét xử theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo. Từ những nội dung trên cáo trạng số: 81/CT-VKS ngày 09/8/2019 của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt đối với bị cáo mức án từ 06 tháng đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu, nên không xem xét. Về tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy các tang vật thu giữ.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị B vắng mặt tại phiên tòa, nhưng không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận khoảng 09 giờ ngày 05/7/2019 đối tượng Quân điều khiển xe máy biển kiểm soát 69 B1-40524 chở bị cáo Muông ngồi phía sau đi trộm gà về nhậu, khi đi mang theo 01 cây nạn thun, 01 bịt đá để làm đạn bắn gà và 01 con gà trống để dành nhử gà, khi đi ra hướng phố Rạch Cui được khoảng 100 mét thì phát hiện có 01 con gà trống, Quân dừng xe lại cho bị cáo Muông xuống xe dùng nạn thun bắn con gà trống có trọng lượng 1,7 kilôgam (con gà được xác định của bà Nguyễn Thị B) lấy bỏ vào bao, sau đó bị Công an truy tìm bắt được Muông và Quân. Tài sản là con gà được định giá có giá trị là 187.000 đồng.

Như vậy, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích, nên hành vi phạm tội của bị cáo Muông được định khung theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng. Việc phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, trước trong và sau khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của bị cáo gây ra.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo thực hiện việc phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng gây mất trật tự trị an ở địa phương, bị cáo cũng biết được tài sản của người khác là bất khả xâm phạm, nhưng do bản chất lười lao động, thích hưởng thụ và xem thường pháp luật, nên bị cáo đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của bị hại.

Bị cáo có nhân thân xấu: Vào năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, năm 2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo lại không lấy đó làm bài học để từ bỏ mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những lập luận, phân tích và đánh giá nêu trên. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội làm cho người dân sinh sống trên địa bàn huyện Trần Văn Thời hoang mang và lo sợ khi tài sản của họ sẽ bị chiếm đoạt trái pháp luật bất cứ lúc nào, để phòng ngừa và răng đe chung, do đó cần có hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo an tâm cải tạo trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội. Đối với đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 06 tháng đến 12 tháng tù phù hợp nên cần chấp nhận.

Đi với hành vi của Đặng Văn Quân chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời ra quyết định xử phạt hành vi phạm hành chính là đúng.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng trong vụ án: Đối với 01 cái bao màu vàng, 01 cây nạn thun, 15 cục đá nhỏ là công cụ dùng vào việc phạm tội và không còn tính năng sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Muông phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 07/7/2019 (ngày bắt bị cáo).

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy 01 cái bao màu vàng, 01 cây nạn thun, 15 cục đá nhỏ. (Các vật chứng hiện nay Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/8/2019).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thi hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

359
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 87/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:87/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;