Bản án 86/2021/HS-ST ngày 25/06/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2021/ HS-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

 Ngày 25 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 82/2021/TLST - HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2021/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Minh Q, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1998 tại Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn TV, xã TQ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Không có, con bà Nguyễn Thị V; vợ, con: Không.

Tiền án: Bản án số 180/2018/HSST ngày 22/11/2018, của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/8/2019.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/02/2021 đến ngày 03/3/2021 chuyển tạm giam. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Đặng Văn H, sinh ngày 25 tháng 7 năm 1995 tại Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn TS, xã TQ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn B và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Không.

Tiền án: Bản án số 66/2017/HSST ngày 08/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/5/2019.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam ngày 09/4/2021 đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

3. Hà Minh T, sinh ngày 15 tháng 02 năm 1992 tại Thái Bình.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn NCN, xã ĐH, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Nơi ở hiện tại: Thôn NT , xã ĐH, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam; con ông Hà Văn N và bà Hà Thị L; vợ: Ngô Thị V; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 03/3/2021. (Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại:

- Anh Đinh Xuân V, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Thôn TN1, xã VL, huyện Hưng Hà,tỉnh Thái Bình.

- Anh Lương Văn K, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn AN, xã TT, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Thôn ĐT, thị trấn HH, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

- Anh Đỗ Văn D, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Thôn NX, xã TP, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

- Ông Phạm Văn B, sinh năm 1954. Nơi cư trú: Lô 29, khu đô thị ĐS, xã PX, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Ông Phạm Thế H, sinh năm 1965. Nơi cư trú: Số nhà 74, tổ 06, đường T TĐ, phường TP, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Anh Lê Bá A, sinh năm 1989. Nơi cư trú: khu tái định cư thuộc thôn M Q, xã MQ, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

- Ông Vũ Văn T, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Thôn MQ, xã MQ, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

- Anh Hà Khắc B, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Thôn VX, xã TT , huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1991.

Nơi cư trú: Số nhà 18, ngõ 71, đường NT, tổ 13, phường PK, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Công ty TNHH thương mại vận tải CH.

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Đức C – Chức vụ: Giám đốc.

Địa chỉ trụ sở: Số 23, Lô 14, khu đô thị Petro Thăng Long, phường QT, thành phố T, tỉnh T.

Đại diện theo ủy quyền:

- Anh Phạm Viết H, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Thôn ÁQ, xã NT, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

- Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Số nhà 608, CT3, khu đô thị 379, phường QT, thành phố TB, tỉnh T.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1975, trú tại thôn TV, xã TQ, huyện Đông H, tỉnh Thái Bình * Người chứng kiến:

- Ông Tăng Đình C, sinh năm 1952. Nơi cư trú: Tổ 13, phường Q T, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Ông Lê Công M, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Khu Đồng Tu 1, thị trấn H H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

(Vắng mặt: Anh V, anh K, anh T, anh D, ông B, ông H, anh Lê Bá Anh, ông T, anh B, anh M, anh H, anh Đ, chị V, ông C, ông M).

* Người tham gia tố tụng khác: Ông Đào Quang N, sinh năm 1984, là Trợ giúp viên pháp lý của Trung Tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là người bào chữa cho bị cáo Đào Minh Q (Có mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 22/02/2021, Đoàn Minh Q điều khiển xe mô tô Honda Wave Anpha, sơn màu đỏ, biển số đăng ký 17B6 - 051.71 chở mẹ là chị Nguyễn Thị V từ nhà đến khu vực chân cầu Thái Bình thuộc phường Hoàng Diệu, T phố Thái Bình để bà V đi làm. Sau đó Q điều khiển xe mô tô đến khu đô thị Petro Thăng Long thuộc phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, mục đích tìm xem có xe ô tô nào sơ hở thì trộm cắp bình ắc quy bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khoảng 03 giờ 45 phút cùng ngày, khi Q đi trên đường số 13, khu đô thị Petro Thăng Long thì phát hiện thấy có chiếc xe ô tô đầu kéo, sơn màu trắng, biển số đăng ký 17C - 092.47 của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H, địa chỉ: số 99, đường số 6, khu đô thị Petro Thăng Long, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình do anh Phạm Viết H quản lý và sử dụng đỗ ở vệ đường không có ai trông coi. Q dừng xe, mở cốp lấy 03 chiếc cờ lê, 01 chiếc mỏ lết đi lại cạnh xe ô tô thấy xe ô tô lắp 04 bình ắc quy nhãn hiệu TROY BATTERY, loại bình CMF 31S800 12V - 100AH (20HR), vỏ bình bằng nhựa màu đen có tổng trị giá 3.800.000 đồng, ở phần trên 04 bình ắc quy này được lắp 01 tấm ốp nhựa. Q dùng cờ lê tháo các ốc vít ra và lấy tấm nhựa bỏ ra để tiếp tục tháo bình ắc quy. Trong khi đang bê 04 bình ắc quy của xe container thì bị lực lượng công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình phát hiện, bắt quả tang yêu cầu Q về trụ sở công an phường Q Trung, thành phố Thái Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý đồ vật tài liệu. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an T phố Thái Bình, Đoàn Minh Q còn khai nhận, trong khoảng thời gian từ ngày 05/9/2020 đến ngày 20/02/2021, Đoàn Minh Q còn thực hiện 07 vụ trộm cắp ắc quy xe ô tô trên địa bàn thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, huyện Vũ Thư và huyện H Hà tỉnh Thái Bình, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ ngày 05/9/2020, Q điều khiển xe mô tô Honda Wave Anpha, sơn màu đỏ, biển số đăng ký 17B6 - 051.71 đến địa bàn xã Phúc Khánh, huyện H Hà, tỉnh Thái Bình, mục đích tìm xe ô tô để trộm cắp bình ắc quy. Khi đến phố Lẻ thuộc xã Phúc Khánh, phát hiện thấy ở khu đất trống đối diện với Bưu điện xã có 01 chiếc xe ô tô tải, sơn màu xanh, biển số đăng ký 17C - 048.12 của anh Đỗ Văn D đang đỗ ở đó không có ai trông coi. Q dừng xe, lấy cờ lê và mỏ lết chuẩn bị sẵn ở trong cốp ra đến tháo ốc lấy 02 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại 12V - 150AH, vỏ bằng nhựa màu trắng có tổng trị giá 2.246.667 đồng. Khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, Q mang đến Cơ sở làm lốp và mua bán phế liệu Vân T ở thôn Nghĩa Thắng, xã Đông Hòa, T phố Thái Bình gặp Hà Minh T để bán bình ắc quy. T thấy Q đến bán ắc quy vào ban đêm, khi cửa hàng nhà mình đã đóng cửa và nhìn qua camera, T hiểu tài sản Q mang bán là do trộm cắp mà có nH vì ham rẻ nên đã mua số ắc quy trên với giá 700.000 đồng. Sau đó T đã bán 02 bình ắc quy trên cho người đàn ông không quen biết với giá 900.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 02 giờ ngày 28/9/2020, Q cũng điều khiển xe mô tô trên đến khu tái định cư thuộc thôn Minh Quàn, xã Minh Quang, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, mục đích tìm xe ô tô sơ hở để trộm cắp ắc quy. Tại đây, Q phát hiện thấy 01 chiếc ô tô tải nhãn hiệu Kia, sơn màu xanh, biển số đăng ký 36C- 270.55 của anh Lê Bá Anh đỗ ở vệ đường không có ai trông coi. Q dừng xe lấy cờ lê và mỏ lết ở trong cốp rồi đi đến xe ô tô 36C-270.55 trộm cắp 01 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại CMF31S-800 12V - 100A, loại 31S800 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen trị giá 1.066.667 đồng. Sau đó Q phát hiện tại khu đất trống còn có xe ô tô tải nhãn hiệu THACO, sơn màu trắng, biển số đăng ký 17C- 133.71 của ông Vũ Văn T đang đỗ không có ai trông coi. Q tiếp tục trộm cắp 01 bình ắc quy nhãn hiệu ROCKET, loại 1000RA 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen trị giá 1.130.000 đồng. Khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày Q mang 02 bình ắc quy trộm cắp được bán cho Hà Minh T với giá 540.000 đồng, T biết 02 bình ắc quy mà Q bán là tài sản trộm cắp mà có. Sau đó T đã bán chiếc bình ắc quy nhãn hiệu ROCKET, loại 1000RA 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen cho người đàn ông lái xe tải không quen biết với giá 500.000 đồng. Còn chiếc bình ắc quy nhãn hiệu PINACO dongnai, loại CMF31S-800 12V - 100A, loại 31S800 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen, Cơ quan điều tra đã thu hồi qua khám xét nơi ở của T.

Vụ thứ ba: Khoảng 02 giờ ngày 20/10/2020 tại đường số 8, thấy ở khu vực trước cửa số nhà 21 khu đô thị Petro Thăng Long, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, Q trộm cắp 04 bình ắc quy nhãn hiệu Enimac, loại 31S800 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen có tổng trị giá 3.800.000 đồng của xe ô tô đầu kéo, sơn màu trắng, biển số 17C - 102.11 của Công ty TNHH thương mại vận tải C H trụ sở tại số 99, đường số 6 khu đô thị Petro Thăng Long, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình. Xe ô tô này do anh Hà Khắc B quản lý, sử dụng. Sau khi trộm cắp được Q đã mang bán cho Hà Minh T với giá 1.000.000 đồng, T biết 04 bình ắc quy của Q là do trộm cắp mà có. Sau đó T đã bán 04 chiếc bình ắc quy cho người đàn ông không quen biết với giá 2.000.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 03 giờ ngày 27/10/2020 tại đường số 7 thuộc tổ 8, phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình, Q đã trộm cắp 02 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại 12V -100A, vỏ bình bằng nhựa màu đen có tổng trị giá 2.046.667 đồng trên xe ô tô nhãn hiệu Cửu Long, sơn màu vàng, biển số đăng ký 17C - 121.63 của ông Phạm Thế H. Sau khi trộm cắp được Q mang bán cho T với giá 400.000 đồng, T biết 02 bình ắc quy của Q do trộm cắp mà có.

Vụ thứ năm: Tối ngày 12/11/2020 Q và Đặng Văn H rủ nhau đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. H điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, sơn màu trắng không có biển số của H chở Q đi đến thị trấn H Hà, huyện H Hà, tỉnh Thái Bình xem có ai để ô tô ngoài đường thì trộm cắp bình ắc quy. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 13/11/2020, H và Q đi đến khu 10 thị trấn H Hà, huyện H Hà, tỉnh Thái Bình thì cả hai phát hiện thấy tại khu đất trống trước cửa Gara ô tô Hoàng Anh có chiếc xe ô tô nhãn hiệu VINAXUKI, sơn màu xanh, biển số 15C - 040.42 và xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long, sơn màu xanh của anh Lương Văn K, sinh năm 1983, trú tại thôn An Nhân, xã Tân Tiến, huyện H Hà, tỉnh Thái Bình (Chủ gara ô tô Hoàng Anh) không có ai trông coi. H dừng xe mở cốp xe, lấy cờ lê và mỏ lết đưa cho Q đi đến 02 chiếc xe ô tô, còn H đứng ở ngoài cảnh giới. Q tháo 01 bình ác quy nhãn hiệu ATLASBX, loại 12V- 68AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen trị giá 966.667 đồng của xe ô tô nhãn hiệu VINAXUKI, sơn màu xanh, biển số 15C - 040.42 và 02 bình ắc quy nhãn hiệu GS, loại 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng có tổng trị giá 2.080.000 đồng của xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long, sơn màu xanh. Sau đó H chở Q mang số ắc quy vừa trộm cắp được đi tiêu thụ. Khoảng 02 giờ 40 phút cùng ngày khi đi đến đường quốc lộ 39 thuộc Khu Đồng Tu I, thị trấn H Hà, huyện H Hà, tỉnh Thái Bình cả hai phát hiện xe ô tô tải, sơn màu trắng, biển số 90C - 086.20 của anh Đinh Xuân V đỗ ở vệ đường không có ai trông coi. H dừng xe máy lại, Q bê 03 bình ắc quy vừa trộm cắp được cất giấu vào bụi chuối ở vệ đường. H đứng cảnh giới, Q mang theo cờ lê và mỏ lết đi đến xe ô tô của anh V, tháo 02 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại 12V - 100 AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng trị giá 2.120.000 đồng bê ra bụi chuối cất giấu. Lúc này H và Q thấy ở khu vực vệ đường khu vực trước cửa Gara ô tô Anh T - Khu Đồng Tu I, thị trấn H Hà, huyện H Hà, tỉnh Thái Bình do anh Nguyễn Công T là chủ gara (gần khu vực xe ô tô của anh V đỗ) có xe ô tô tải, sơn màu bạc và xe ô tô bồn chở xăng dầu, sơn màu xanh đỗ ở khu vực trước cửa gara không có ai trông coi (02 xe ô tô này là xe của khách mang đến gara ô tô của anh T để sửa, anh T không nhớ chủ của 02 xe ô tô này là ai, ở đâu). H đứng cảnh giới, Q mang cờ lê và mỏ lết đi đến tháo 02 bình ắc quy nhãn hiệu GS, loại 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng xanh của xe ô tô tải, sơn màu bạc tổng trị giá 2.086.667 đồng và 02 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại 12V - 85AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng - xanh của của xe ô tô bồn chở xăng dầu, sơn màu xanh trị giá 1.933.333 đồng. Sau đó Q bê 04 bình ắc quy trộm cắp được ra bụi chuối để cất giấu thì lúc này quần chúng nhân dân phát hiện hô hoán nên H và Q bỏ chạy để lại 09 bình ắc quy trộm cắp được ở gốc chuối. Sau khi Q và H bỏ chạy anh K, anh V và anh T đã tự nhận lại bình ắc quy của mình. Tổng giá trị 09 bình ắc quy mà H và Q trộm cắp được của anh T, anh V, anh K vào ngày 13/11/2020 là 9.186.667 đồng.

- Vụ thứ sáu: Khoảng 02 giờ ngày 22/11/2020 Q trộm cắp 02 bình ắc quy nhãn hiệu GS, loại 12V - 150AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng có tổng trị giá 3.000.000 đồng trên xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long, sơn màu trắng - xanh, biển số 19C - 069.57 của anh Nguyễn Văn M xe ô tô đỗ tại khu vực đầu ngõ 71 thuộc tổ 3, phường Phú Khánh, T phố Thái Bình. Sau khi trộm cắp được 02 bình ắc quy Q mang bán cho Hà Minh T với giá 300.000 đồng, T biết số ắc quy của Q là do trộm cắp mà có. Sau đó T đã bán 02 bình ắc quy trên cho người đàn ông không quen biết lấy 800.000 đồng.

- Vụ thứ bảy: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 20/02/2021 tại khu đất trống khu đô thị Đam San, thuộc xã Phú Xuân, T phố Thái Bình, Q đã trộm cắp 02 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại 12V -100A, vỏ bình bằng nhựa màu đen của xe ô tô 17C - 111.65 có tổng trị giá 2.073.333 đồng trên xe ô tô tải nhãn hiệu ISUZU, sơn màu trắng, biển số 17C - 111.65 của ông Phạm Văn B đỗ tại đó. Sau khi trộm cắp được ắc quy Q mang bán cho Hà Minh T với giá 400.000 đồng, T biết số ắc quy của Q là do trộm cắp mà có.

Kết luận định giá tài sản số 06, 07 ngày 25/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự T phố Thái Bình; Kết luận định giá tài sản số 13 ngày 08/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Bình tổng số tài sản trộm cắp là 28.350.001 đồng.

Tại phiên Tòa các bị cáo Q, H, T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với các bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 86/CT- VKSTPTB ngày 31/5/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố các bị cáo Q, H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự, truy tố bị cáo T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật như bản cáo trạng số 86/CT- VKSTPTB và đề NHội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g, h khoản 1 điều 52, điều 17, điều 50, điều 58, điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đoàn Minh Q.

Xử phạt bị cáo Đoàn Minh Q 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/02/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Q.

Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 17, điều 50, điều 58, điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đặng Văn H.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 09/4/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

- Áp dụng khoản 1, khoản 5 điều 323, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 38, điều 50 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Minh T.

Xử phạt bị cáo Hà Minh T 06 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 46 Bộ luật hình sự, điều 584, điều 585, điều 586, điều 587, điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Q phải bồi thường cho anh Đỗ Văn D số tiền 2.246.667 đồng. Buộc bị cáo Q phải bồi thường cho anh Vũ Văn T số tiền 1.130.000 đồng. Buộc bị cáo Q phải bồi thường cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H số tiền 3.800.000 đồng. Buộc bị cáo Q phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn M số tiền 3.000.000 đồng. Anh H, anh B đều đã nhận lại lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường tài sản do thiệt hại bị xâm phạm nên không phải giải quyết. Anh K, anh V, anh T đều đã nhận lại lại tài sản nên không yêu cầu giải quyết nên không phải giải quyết. Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H không yêu cầu Q phải bồi 04 bình ắc quy nhãn hiệu TROY BATTERY, loại bình CMF nên không phải giải quyết. Ngoài ra, đề Nxử lý vật chứng và án phí. Các bị cáo Q, H và T không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên về bản luận tội.

- Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Minh Q phát biểu bài bào chữa: Do bị cáo hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ T khẩn khai báo và ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h, g khoản 1 điều 52, điều 38, điều 50, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đoàn Minh Q. Đề NHội đồng xét xử cho bị cáo Q được hưởng mức án thấp nhất.

Kết thúc phần tranh luận các bị cáo Q, H, T nói lời sau cùng: Đề NHội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Các bị cáo, bị hại và người chứng kiến không khiếu nại hay có ý kiến gì nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với các bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên Tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập ngày 22/02/2021, biên bản khám xét chỗ ở của Hà Minh T tại thôn Nghĩa Thắng, xã Đông Hòa, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập ngày 22/02/2021, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản xác định địa điểm; bản ảnh xác định địa điểm do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập, biên bản làm việc, biên bản trả lại đồ vật, tài liệu, bản ảnh nhận dạng vật chứng, kết luận định giá tài sản số 06, 07, ngày 25/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Bình, kết luận định giá tài sản số 13 ngày 08/4/2021, lời khai bị hại là anh Đinh Xuân V, anh Lương Văn K, anh Nguyễn Công T, anh Đỗ Văn D, ông Phạm Văn B, ông Phạm Thế H, anh Lê Bá Anh, ông Vũ Văn T, anh Hà Khắc B, anh Nguyễn Văn M, lời khai người đại diện theo ủy quyền của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H, anh Phạm Viết H, anh Trần Văn Đ và lời khai người chứng kiến ông Tăng Đình C và ông Lê Công M. Từ những chứng cứ và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 05/9/2020 đến ngày 22/02/2021, Đoàn Minh Q đã thực hiện tám vụ trộm cắp bình ắc quy xe ô tô trên địa bàn thành phố Thái Bình, huyện H Hà và huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, tổng trị giá tài sản chiếm đoạt 28.350.001 đồng. Đặng Văn H thực hiện hành vi trộm cắp cùng Đoàn Minh Q một vụ ngày 13/11/2020 tại thị trấn H Hà, tỉnh Thái Bình, trị giá tài sản chiếm đoạt 9.186.667 đồng . Hà Minh T biết những bình ắc quy là do Đoàn Minh Q trộm cắp mà có nH vẫn mua 06 lần với giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 15.363.333 đồng. Bản thân Q làm nghề lao động tự do, chi phí sinh hoạt còn phụ thuộc vào gia đình, bản thân Hà Minh T làm nghề và thu nhập C là từ việc mở cửa hàng sửa lốp xe ô tô.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nH thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành C về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống C của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Điều 323. Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3]. Đánh tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo Q, H và T là nguy hiểm cho xã hội. Đối với hành vi của bị cáo Q, H đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Đối với hành vi của bị cáo T đã xâm phạm trật tự công cộng. Bị cáo Q thực hiện 08 vụ trộm cắp bình ắc quy xe ô tô tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 28.350.001 đồng và là người thực hành, trực tiếp dùng cờ lê, mỏ lết để lấy các bình ắc quy. Bị cáo H cùng bị cáo Q thực hiện 01 vụ trộm cắp ngày 13/11/2020 trị giá tài sản chiếm đoạt là 9.186.667 đồng, bị cáo là người giúp sức ở bên ngoài quan sát, canh coi, cảnh giới cho bị cáo Q trực tiếp lấy bình ắc quy nên vai trò của bị cáo H xếp thứ hai trong vụ án. Bị cáo T đã biết những bình ắc quy là tài sản do bị cáo Q phạm tội mà có nH bị cáo cố ý mua 06 lần với giá trị tài sản chiếm đoạt là 15.363.333 đồng nên đối chiếu với quy định tại điều 173 Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo Q, H đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo T đã phạm tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo quy định tại khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của các bị cáo:

[4.1]. Về nhân thân: Các bị cáo Đoàn Minh Q, Đặng Văn H đều bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma Ty”. Bị cáo Hà MinhT có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ: Cả ba bị cáo Q, H, T đều T khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cả ba bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Đối bị cáo H có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự, bị cáo T đã tự nguyện nộp lại số tiền là 860.000 đồng là khoản tiền bị cáo đã thu lợi bất C nên cả hai bị cáo H, bị cáo T được áp dụng thêm khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4.3]. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Q phải chịu hai tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm theo quy định tại các điểm g, h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo H phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Hà Minh T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt:

[5.1]. Về hình phạt C: Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo và nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần thiết phải xử phạt các bị cáo Q, H, T bằng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo T công dân tốt đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[5.2]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Q, H, T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Đối với 02 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai, loại 12V - 150AH, vỏ bằng nhựa màu trắng của anh Đỗ Văn D mà bị cáo Q trộm cắp vào ngày 05/9/2020, anh D yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường số tiền 2.246.667 đồng.

Đối với 01 bình ắc quy nhãn hiệu ROCKET, loại 1000RA 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen của anh Vũ Văn T, anh T yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường số tiền 1.130.000 đồng.

Đối với 04 bình ắc quy nhãn hiệu Enimac, loại 31S800 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu đen của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H mà bị cáo Q trộm cắp vào ngày 20/10/2020, Công ty yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường số tiền 3.800.000 đồng.

Đối với 02 bình ắc quy nhãn hiệu GS, loại 12V - 150AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng của anh Nguyễn Văn M mà bị cáo Q trộm cắp được vào ngày 22/11/2020, anh M yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường số tiền 3.000.000 đồng.

Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng các điều 584, điều 585, điều 586, điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Đoàn Minh Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho anh Đỗ Văn D, anh Vũ Văn T, anh Nguyễn Văn M và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H là phù hợp với quy định của pháp luật.

Anh Phạm Thế H đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm nên không giải quyết. Ông Phạm Văn B đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm nên không giải quyết.

Anh Lương Văn K, Đinh Xuân V và Nguyễn Công T đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm nên không giải quyết.

Đối với 04 bình ắc quy nhãn hiệu TROY BATTERY, loại bình CMF 31S800 12V - 100AH (20HR), vỏ bình bằng nhựa màu đen của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H mà bị cáo Q trộm cắp vào ngày 22/02/2021, Công ty không yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm nên không giải quyết.

[7]. Về vật chứng: Đối với một bật lửa ga màu xanh, một mỏ lết bằng kim loại màu đen, loại 8 - 200 mm, một chiếc cờ lê 10 bằng kim loại màu trắng, một chiếc cờ lê 13 bằng kim loại màu trắng, một chiếc cờ lê 14 bằng kim loại màu trắng, một dao bị gẫy bằng kim loại màu trắng, mũi dao nhọn có bản rộng 03 cm, các mảnh gạch bê tông đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với một cân đồng hồ màu xanh nhãn hiệu Nhơn Hòa Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo T đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Wave Anpha, sơn màu đỏ, biển số 17B6 - 051.71 bị cáo Q đã sử dụng chiếc xe trên của chị V làm phương tiện đi trộm cắp nH chị V không biết, qua điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị V nên cần trả lại chiếc xe trên cho chị V là phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo Hà Minh T thu lợi bất C số tiền là 860.000 đồng nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước, đối trừ số tiền bị cáo đã nộp 2.500.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nên trả lại cho bị cáo T 1.640.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8]. Về các vấn đề khác của vụ án: Quá trình điều tra xác định trong 11 bình ắc quy thu của bị cáo T có 05 bình là tài sản của Hà Minh T mua của những người không quen biết, không biết nguồn gốc. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại Hà Minh T số tài sản trên. Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave Anpha, sơn màu đỏ, biển số 17B6 - 051.71: Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc là chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1975, trú tại thôn Tng Vinh, xã Trọng Quan, huyện Đông H, tỉnh Thái Bình (mẹ của bị cáo Q). Q sử dụng chiếc xe máy trên làm phương tiện đi trộm cắp tài sản nH chị V không biết nên không có căn cứ để xử lý đối với chị Nguyễn Thị V. Ngoài ra trong quá trình điều tra còn xác định Đoàn Minh Q còn 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp ắc quy mang bán cho Hà Minh T lấy tiền tiêu xài, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 03 giờ ngày 18/12/2020, Q trộm cắp của anh Nguyễn Văn Hiệp, sinh năm 1985, trú tại số nhà 36, đường số 11, khu đô thị Petro Thăng Long, tổ 5, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình 01 bình ắc quy nhãn hiệu PINACO Đồng Nai N100 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng trị giá 930.000 đồng mang bán cho T lấy 300.000 đồng. T biết tài sản trên là do Q trộm cắp mà có.

Lần thứ hai: Khoảng 03 giờ 10 phút ngày 29/12/2020, Q trộm cắp của anh Nguyễn Thanh Bình, sinh năm 1986, trú tại số nhà 614, đường Long H, tổ 01, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình 01 bình ắc quy nhãn hiệu Enimac, loại N100 12V - 100AH, vỏ bình bằng nhựa màu trắng trị giá 950.000 đồng, mang bán cho Hà Minh T lấy 300.000 đồng. T biết tài sản trên là do Q trộm cắp mà có. Sau đó T đã bán chiếc bình ắc quy trên cho người đàn ông không quen biết lái xe ô tô tải với giá 500.000 đồng.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản nêu trên của Đoàn Minh Q và Hà Minh T, do giá trị tài sản chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đoàn Minh Q về tội trộm cắp tài sản. Công an thành phố Thái Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành C đối với Đoàn Minh Q về hành vi trộm cắp tài sản, quyết định xử phạt vi phạm hành C đối với Hà Minh T về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9]. Về án phí: Đối với các bị cáo H, T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Đối với bị cáo Đoàn Minh Q có giấy chứng nhận hộ cận nghèo nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Đoàn Minh Q là phù hợp với quy định của pháp luật.

[10].Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Q, H, T, người bào chữa cho bị cáo Đoàn Minh Q, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đoàn Minh Q, Đặng Văn H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Tuyên bố bị cáo Hà Minh T phạm tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có".

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h, g khoản 1 điều 52, điều 38, điều 50, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đoàn Minh Q.

Xử phạt bị cáo Đoàn Minh Q 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/02/2021.

- Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 38, điều 50, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đặng Văn H.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 09/4/2021.

- Áp dụng khoản 1 điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 50, điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Minh T.

Xử phạt bị cáo Hà Minh T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 46 Bộ luật hình sự, điều 584, điều 585, điều 586, điều 589 Bộ luật dân sự.

- Buộc bị cáo Đoàn Minh Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho anh Đỗ Văn D số tiền 2.246.667 đồng (Hai triệu hai trăm bốn mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng).

- Buộc bị cáo Đoàn Minh Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho anh Vũ Văn T số tiền 1.130.000 đồng (Một triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

- Buộc bị cáo Đoàn Minh Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H số tiền 3.800.000 đồng (Ba triệu tám trăm nghìn đồng).

- Buộc bị cáo Đoàn Minh Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cho anh Nguyễn Văn M số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

- Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải C H không yêu cầu bị cáo Đoàn Minh Q phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm 04 bình ắc quy nhãn hiệu TROY BATTERY, loại bình CMF 31S800 12V - 100AH (20HR), vỏ bình bằng nhựa màu đen nên không giải quyết.

4. Về vật chứng: Áp dụng điều 46, điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy một bật lửa ga màu xanh, một mỏ lết bằng kim loại màu đen, loại 8-200mm, một chiếc cờ lê 10 bằng kim loại màu trắng, một chiếc cờ lê 13 bằng kim loại màu trắng, một chiếc cờ lê 14 bằng kim loại màu trắng, một dao bị gẫy bằng kim loại màu trắng, mũi dao nhọn có bản rộng 03 cm, các mảnh gạch bê tông.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước một cân đồng hồ màu xanh nhãn hiệu Nhơn Hòa của bị cáo Hà Minh T.

- Trả lại một xe máy nhãn hiệu Wave Anpha, sơn màu đỏ, biển số 17B6 - 051.71 cho chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1975, nơi cư trú: Thôn Tng Vinh, xã Trọng Quan, huyện Đông H, tỉnh Thái Bình.

(Toàn bộ số vật chứng trên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có đặc điểm mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2021).

- Buộc bị cáo Hà Minh T phải nộp lại số tiền thu lợi bất C là 860.000 đồng sung quỹ Nhà nước, đối trừ số tiền bị cáo T đã nộp 2.500.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự T phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo biên lai thu số 0001776 ngày 23 tháng 6 năm 2021.Trả lại cho bị cáo Hà Minh T 1.640.000 đồng (Một triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng).

5. Về án phí: Áp dụng điều 135, khoản 2 điều 136, điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Áp dụng điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

Các bị cáo H, T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Q, H, T, người bào chữa cho bị cáo Đoàn Minh Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh V, anh K, anh T, anh D, ông B, ông H, anh Lê Bá A, ông T, anh B, anh M, chị V, Công ty TNHH thương mại vận tải CH có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu lãi suất trên số tiền chậm trả theo quy định tại điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 86/2021/HS-ST ngày 25/06/2021 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;