TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 86/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:
Cao Văn Th, sinh ngày 26 tháng 3 năm 1983 tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm L, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Đức Rụ và bà Phạm Thị Huệ; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/11/2013 bị TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 28 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2019 đến nay; hiện bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Giao Thủy; “có mặt”.
* Bị hại: Chị Nguyễn Thị T; sinh năm 1977; địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai; “vắng mặt”.
* Người làm chứng:
- NLC1; “vắng mặt”.
- NLC2; “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ, ngày 27 tháng 7 năm 2019, Cao Văn Th một mình đi bộ đến khu vực xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy mục đích thấy ai sơ hở gì về tài sản thì trộm cắp. Khi đến khu vực nhà chị Đinh Thị Thoa ở xóm 7, xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy, Cao Văn Th thấy nhà chị Thoa có rạp đám cưới, đèn còn sáng, mọi người đã đi ngủ, cửa chính và cửa ngách mở, Th đi theo lối cửa ngách vào bên trong nhà thì thấy chị Nguyễn Thị T (là người nhà chị Thoa) đang nằm ngủ dưới nền nhà, bên cạnh có chiếc điện thoại hiệu Iphone 6. Cao Văn Th lấy chiếc điện thoại trên rồi đi ra ngoài thì bị bắt quả tang.
Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Giao Thủy đã xác định: 01 chiếc điện thoại Iphone có trị giá 2.300.000 đồng.
Bản Cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 09-10-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Cao Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Cao Văn Th từ 9 tháng đến 1 năm tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về việc kết tội bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng kết hợp với kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ, ngày 27 tháng 7 năm 2019, tại nhà chị Đinh Thị Thoa ở xóm 7, xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy, Cao Văn Th đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 trị giá 2.300.000 đồng của chị Nguyễn Thị T. Như vậy, hành vi của bị cáo Cao Văn Th đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy.
[3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu của người khác đối với tài sản, đó là quyền sở hữu về tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội tại địa phương gây sự bất bình và lo lắng trong nhân dân.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng đã được xóa án tích, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, đủ tác dụng cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản giá trị, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, như quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị T đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại Iphone 6; nay chị không có yêu cầu gì nên không xem xét, điều chỉnh.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Cao Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo Cao Văn Th 1 (một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 7 năm 2019.
2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Cao Văn Th phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo Cao Văn Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 86/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 86/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về