Bản án 86/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 86/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 08 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2019/HS-ST, ngày 03/06/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2019/QĐXXST-HS ngày 17/07/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Ngọc L, sinh năm: 1993; Trú tại: số nhà 12, ngõ 107, đường Trần Quang K; phố B, phường N, thành phố N, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn H và con bà: Nguyễn Thị B; Vợ, con: chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/10/2018 đến ngày 24/10/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh N cho đến nay, có mặt.

Người bị hại: Anh Vũ Đức M, sinh năm: 1987 (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Ông Vũ Xuân Đ, sinh năm: 1957

- Bà Phạm Thị D, sinh năm: 1956

Ông Đang, bà Diện là bố mẹ đẻ anh M.

Cùng trú tại: số nhà 18, ngõ 161, đường Nguyễn, phố Phong Q, phường N, thành phố N, tỉnh N.

- Chị Phan Thị T, sinh năm: 1988, là vợ anh M.

- Cháu Vũ Phan H, sinh năm: 2008.

- Cháu Vũ Minh N, sinh năm: 2012.

- Cháu Vũ Phan H1, sinh năm: 2018. Cháu H, cháu N và cháu H1 là con anh M.

Cùng trú tại: số nhà 24, đường Phùng H, phố Phong Q, phường N, thành phố N, tỉnh N.

Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Phan Thị T (Theo văn bản ủy quyền lập ngày 07/01/2019). Chị T có đơn xin vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Văn H, sinh năm: 1963, địa chỉ: phố B, phường N, thành phố N, tỉnh N. Có mặt.

- Anh Lã Văn D, sinh năm: 1988, địa chỉ: Phố H, phường N, thành phố N, tỉnh N.

Người làm chứng:

- Anh Lã Văn C, sinh năm: 1993 (Vắng mặt)

- Anh Phan Văn N, sinh năm 1988 (Vắng mặt)

- Chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1991 (Vắng mặt)

- Chị Hà Thị L, sinh năm: 1985 (Vắng mặt)

- Anh Phạm Ngọc T, sinh năm: 1980 (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Ngọc L và anh Vũ Đức M trước đây cùng làm thuê cho anh Vũ Văn T ở phường N, thành phố N (anh T là chú của bị cáo L). Chiều ngày 14/10/2018, Trần Ngọc L cùng anh Lã Văn C đi làm cùng với nhau, khoảng 17 giờ khi đi làm về, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream màu tím biển kiểm soát 35F1-4369 chở anh C về nhà. Đến khoảng 17 giờ 30 phút khi đi đến đường Đinh Tiên Hoàng, anh Cương nói với L “Còn sớm vào làm cốc nước rồi về”. Bị cáo L đồng ý điều khiển xe chở C quay ngược lại phía đường Đào Duy Từ. Khi đi đến quán nước trên vỉa hè thuộc đường Đào Duy Từ của chị Nguyễn Thị N, L dựng xe ở vỉa hè cạnh máy ép nước mía của chị N rồi L cùng C vào quán uống nước, khi và quán nước, L nhìn thấy anh Vũ Đức M đang ngồi trong quán cùng với anh Phạm Văn N là chồng của N cũng đang ngồi uống nước. Thấy L, anh M nói “Mẹ mày gặp tao không nói gì à”, L không trả lời mà cùng C ngồi vào bàn phía bên trái anh M và quay lưng lại với bàn của anh M. Thấy vậy, anh M tiếp tục nói “Mẹ 2 thằng mày mỗi thằng làm một quả dừa nhé”. Bị cáo L vẫn không nói gì mà gọi chị N Cho em hai cốc trà đá”. Lúc này anh N đứng dậy đi về còn anh M kéo ghế ngồi vào gần L và hỏi “Thế giờ thằng chú mày làm gì”, L trả lời “Ông ấy vẫn làm như vậy”. Anh M hỏi tiếp “Thế giờ nó ở đâu” bị cáo L trả lời “Vẫn chỗ cũ”. Anh M chửi “Con mẹ mày tao thấy ở chỗ đấy nó bán tranh cơ mà”, nghe vậy L trả lời “Ừ thì ông ấy chuyển ra đường đi vào Ninh Phong ấy”. Anh M lại hỏi “Khu nào”, bị cáo L nói “Nam Bình”, anh M liền nói “Vậy tao gặp nó mấy lần ở đấy rồi”, anh M chửi tiếp “Con mẹ, thằng chú mày, không đủ tuổi để sống ở cái đất này”, L hỏi anh M “Thế là như nào, thế là như nào”, anh M nói “Như nào là như nào”, L hỏi “Anh với ông Toán như thế nào”, anh M lại chửi “Hai chú cháu mày sống chẳng ra cái l... gì”. Sau đó C đứng dậy trả tiền nước cho chị Ngân và hỏi L “Có uống gì nữa không?”, L trả lời “Làm hai cốc nước mía nữa”, anh M tiếp tục hỏi bị cáo L “Giờ mày làm gì?”, bị cáo L trả lời “Em không làm điện nước nữa, vất vả lắm giờ chuyển sang làm nhôm kính”, anh M lại chửi “Đ.. con mẹ mày”, thấy anh M liên tục chửi mình bị cáo L liền đứng dậy và nói “Cái gì cũng có giới hạn của nó thôi, ông chửi ai đấy”, anh M liền nói “Ơ, con mẹ mày”, Do bị anh M vô cớ chửi nhiều nên bị cáo L bức xúc đứng dậy, dùng chân trái đá vào mặt anh M, làm anh M ngã ngửa ra sau đầu đập xuống nền vỉa hè cùng với chiếc ghế đang ngồi. Sau đó bị cáo L tiến lại gần anh M tiếp tục dùng chân phải đá vào má bên trái của anh M một cái, đồng thời bị cáo L cúi người xuống dùng mu bàn tay phải vỗ vào má bên phải của anh M 2 cái, thấy anh M nhăn mặt L nói “Lần sau đừng như vậy nữa, cái mồm làm tội cái thân đấy”. Lúc này C đến kéo tay L ra chỗ để xe mô tô thì chị Ngân chủ quán nước và chị Hà Thị L, anh Phạm Ngọc T là khách đang ngồi uống nước tại quán nước bên cạnh sang chỗ anh M ngã. Chị L nói “sao chúng mày đánh nó, không lại xem nó làm sao đưa đi viện đi”, bị cáo L trả lời “Tại nó chửi em nên em đánh nó”. Anh T thấy vậy bảo L “thôi đi đi”. L điều khiển xe chở Cương đi về còn anh M được chị N và một số người dân đưa vào bệnh viện đa khoa tỉnh N cấp cứu, nhưng anh Vũ Đức M đã tử vong trước khi vào bệnh viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 049/2018/TT - TTPY ngày 23/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Ninh Bình kết luận tử thi Vũ Đức M như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Đại thể: Chấn thương sọ não kín. Có sưng nề, tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh phải. Tụ máu, chẩy máu lan tỏa màng mềm hai bán cầu đại não, tiểu não đặc biệt tụ máu bán cầu đại não phải thành lớp đông đen. Phù não, kẹt hành nhân tiểu não.

- Vi thể: Dập vỏ não bán cầu phải. Phù não, sung huyết, chẩy máu não - màng não.

- Độc chất: Nồng độ cồn trong máu C = 152,4mg/100ml; Ma túy (-) âm tính.

2. Nguyên nhân chết: Phù não, dập não (vi thể bán cầu phải), chảy máu não- màng não, kẹt hạnh nhân tiểu não trên nạn nhân có nồng độ cồn trong máu C= 152,4 mg/100ml.

3. Kết luận khác: Cơ chế hình thành thương tích.

- Sưng nề đỉnh phải và vết xạt, bầm tụ máu mặt: Do vật cứng diện giới hạn trực tiếp gây nên.

Tại bản Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 31/05/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Trần Ngọc L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Ngọc L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Bị cáo L, người đại diện ủy quyền cho những người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Phan Thị T không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 049/2018/TT-TTPY ngày 23/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc L phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc L từ 06 năm tù đến 06 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 15/10/2018.

- Vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 điếu cày kích thước (66x5)cm không có lõ điếu; 01 lõ điếu cày kích thước (10x6) cm; 01 hộp đựng thuốc lào kích thước( 9x7)cm; 03 ghế nhựa đỏ kích thước (63x32) cm; 01 đôi dép da màu nâu dài 29 cm, 01 áo phông màu đen xám, dạng áo không có cổ cộc tay; 01 mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi trai màu trắng; 01 mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi trai màu đen, viền cao su màu đen; 01 quần bò dài màu bạc, Size 34, có mác DOLCE và GABBANA; 01 áo phông cộc tay, cổ bẻ nửa thân trên màu cam, nửa thân dưới màu trắng, áo có mác MECEDES-BENZ, ngực áo phải có chữ AMG; 01 đôi giầy vải cỡ 43, thân màu xanh đen, đế màu trắng, lòng đế giầy có chữ ASIA; 01 áo phông cộc tay mầu đỏ, ngực áo có chữ HENGLI, 01 quần lửng cạp chun màu xanh, 01 quần sịp mầu xám.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc L không có ý kiến gì với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N; đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Người đại diện hợp pháp cho người bị hại đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện công khai, hợp pháp đúng Pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo Trần Ngọc L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như Kết luận giám định pháp y và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17giờ 30 phút ngày 14/10/2018, tại khu vực quán nước của chị Nguyễn Thị N ở đường Đào Duy Từ, phố 9, phường Đ, thành phố N, tỉnh N. Sau khi gặp anh Vũ Đức M tại quán nước, L bị anh M nhiều lần có lời lẽ mang tính chửi, súc phạm nên bị cáo Trần Ngọc L không kiềm chế được bản thân, bị cáo dùng chân đá vào mặt bên phải của anh Vũ Đức M làm anh M ngã ngửa ra phía sau đầu đập xuống nền vỉa hè, không dừng lại bị cáo L tiếp tục dùng chân đá vào má bên trái của anh M, dùng tay phải vỗ vào má bên phải của anh M làm anh M tử vong, từ hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tính mạng của người khác một cách trái Pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là cố ý, bị cáo tuổi đời còn rất trẻ, không làm chủ bản thân, do bị cáo bức xúc bị anh M chửi nhiều mà bị cáo không kiềm chế dẫn đến việc phạm tội làm anh M tử vong. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo buộc bị cáo phải cách ly ra ngoài đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo, để bị cáo có thời gian nhận thức được hậu quả của hành vi phạm tội của mình, đồng thời góp phần giáo dục chung trong xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt bị cáo Trần Ngọc L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, ăn năn hối cải; bị cáo tác động đến gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại; Đại diện cho gia đình người bị hại chị Thủy đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; trong vụ án này bị cáo phạm tội có phần lỗi của người bị hại đã có lời lẽ mang tính súc phạm bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tòa thấy bị cáo Trần Ngọc L nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, có 2 tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử mức án dưới khung hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp để thể hiện tính nhân đạo của Pháp luật.

[3] Các vấn đề khác:

- Về tài sản đã thu giữ: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số Imeil: 359969053990654 có lắp sim điện thoại bên trong; 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu xám, số Imeil: 359296064493845, máy không lắp sim. Quá trình điều tra xác định là của anh Vũ Đức M nên Cơ quan điều tra công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho chị Phan Thị T. Chị T đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream màu tím, biển kiểm soát 35F1 - 4369, số khung 0164011, số máy 164011 và 01 đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 35F1-4369 mang tên Bùi Văn T. Quá trình điều tra xác định là xe của anh Lã Văn D, sinh năm 1988, trú tại phố H, phường N, thành phố N ( là anh trai của C) mua lại của anh Bùi Văn T ở xã Khánh T, huyện Y. Anh D cho C mượn xe để đi làm không biết việc L sử dụng xe mô tô trên. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cùng 01 đăng ký xe mô tô cho anh D, anh D đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì.

Việc cơ quan điểu tra đã trả lại toàn bộ tài sản đã thu giữ như trên là đúng với quy định của pháp luật.

- Về trách nhiệm dân sự: Ngày 26/04/2019 giữa gia đình bị cáo Trần Ngọc L đại diện là ông Trần Văn H (bố đẻ của bị cáo) đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho gia đình anh Vũ Đức M số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng chẵn). Chị Phan Thị T là vợ anh M đã đại diện gia đình anh M nhận đủ số tiền trên, đến nay chị Thủy không có yêu cầu thêm gì khác. Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn H cũng không có yêu cầu bị cáo L phải bồi thường lại số tiền đã bỏ ra để khắc phục hậu quả cho người bị hại sau khi chấp hành xong bản án. Vì vậy, về phần trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Người đại diện hợp pháp cho người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm a khoản 4 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc L phạm tội "Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc L 06 (sáu ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 15/10/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy những đồ vật tài sản không còn giá trị xử dụng: 01 điếu cày kích thước (66x5)cm bị bung phần lõ điếu; 01 lõ điếu cày kích thước (10x6) cm; 01 hộp đựng thuốc lào kích thước( 9x7)cm; 03 ghế nhựa đỏ kích thước (63x32) cm; 01 đôi dép da màu nâu dài 29 cm, 01 áo phông màu đen xám, dạng áo không cổ cộc tay, ngực trái áo có số 1 và chữ Vietcho màu đỏ; 01 mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi trai màu trắng, viền mũ màu đen trắng; 01 mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi trai màu đen, viền cao su màu đen; 01 quần bò dài bạc màu bạc, Size 34, có mác DOLCE và GABBANA; 01 áo phông cộc tay, cổ bẻ nửa thân trên màu cam, nửa thân dưới màu trắng, áo có mác MECEDES-BENZ, ngực áo phải có chữ AMG; 01 đôi giầy vải cỡ 43, thân màu xanh đen, đế màu trắng, lòng đế giầy có chữ ASIA; 01 áo phông cộc tay mầu đỏ, ngực áo có chữ HENGLI, 01 quần lửng cạp chun màu xanh, 01 quần sịp mầu xám.

(Vật chứng có đặc điểm theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 06 năm 2019 giữa Công an Thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Ngọc L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung Quĩ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp cho người bị hại vắng mặt được được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 86/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:86/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;