Bản án 86/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 86/2019/HS-ST NGÀY 07/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2019/QĐXXST-HS, ngày 21/5/2019 đối với bị cáo:

LNPV, sinh ngày 03/10/1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: (Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 4xx Lô B chung cư SLL, Phường 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 1x/1x3/37 ADL, Phường 3, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê MT và bà Nguyễn Thị Phương Nam; chồng tên VHT (sinh năm: 1990) và có 01 người con (sinh năm 2017); tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 09/12/2018, Công an Phường 3, Quận 8 kiểm tra hành chính nhà Số 1x/1x3/37 ADL, Phường 3, Quận 8. Khi kiểm tra tại phòng ngủ trên lầu của căn nhà thì LNPV lấy ra 01 áo khoác màu đen (đang treo trong ngăn tủ thứ 04), trong túi áo bên trái có 01 hộp giấy màu nâu nhạt (trên nắp hộp có ghi chữ “HONEST”) bên trong có 23 gói nylon chứa ma túy gồm: 21 gói nhỏ, 02 gói lớn; cơ quan Công an Phường 3 thu giữ ma túy và tạm giữ của LNPV ½ đoạn ống nhựa cắt xéo một đầu, 01 đầu được dán kín. Trong lúc kiểm tra có VHT (chồng LNPV) và Lê NPT (em LNPV) nên Công an phường đưa tất cả về trụ sở Công an phường làm việc và lập biên bản bắt người quả tang đối với LNPV.

Sau đó, hồ sơ chuyển đến Cơ quan điều tra Công an Quận 8 điều tra xử lý.

Theo Kết luận giám định số 163, ngày 12/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 23 gói nylon (để trong hộp giấy có in chữ “HONEST”) được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên LNPV, Lê MT (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 3, Quận 8 gởi đến giám định có khối lượng 5,2474g (năm phẩy hai bốn bảy bốn gam) là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 8, LNPV khai nhận: Bản thân LNPV nghiện ma túy, nên khoảng 18 giờ, ngày 02/12/2018, LNPV thuê xe ôm đến khu vực cầu Kênh Xáng, Phường 3, Quận 8 gặp và mua của người phụ nữ tên Mị (không xác định được lai lịch) 6.000.000 đồng ma túy, Mị đưa cho LNPV 25 gói nylon chứa ma túy. Có ma túy, LNPV mang về nhà sử dụng hết 02 gói, 23 gói còn lại bỏ trong 01 cái hộp có ghi chữ “HONEST” và để trong túi áo khoác màu đen treo ở ngăn tủ thứ 04 phòng ngủ để sử dụng dần. Khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 09/12/2018, Công an phường kiểm tra hành chính và LNPV tự lấy số ma túy trên giao cho cơ quan phường để lập biên bản phạm tội quả tang đối với LNPV.

Tại thời điểm Công an Phường 3, Quận 8 kiểm tra hành chính, có mặt của VHT (chồng LNPV) và Lê NPT (em LNPV); nhưng cả Tùng và Trinh đều không có liên quan đến hành vi phạm tội của LNPV.

Vật chứng: 01 gói niêm phong ghi vụ số 163/19, bên ngoài có các chữ ký ghi tên LNPV, Lê MT (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc Tiền, hình dấu Công an Phường 3, Quận 8 và chữ ký giám định viên Huỳnh Thanh Thảo; 01 áo khoác màu đen hiệu Profleet; ½ đoạn ống hút nhựa cắt xéo một đầu, một đầu dán kín.

Đối với phụ nữ tên Mị bán ma túy cho LNPV, do không rõ lai lịch; nên cơ quan Công an không có căn cứ để xử lý.

Qua xác minh, căn nhà Số 1x/1x3/37 ADL, Phường 3, Quận 8 do bà Trần Thị Linh đứng tên. Bà Linh cho ông Lê MT (cha của LNPV) thuê ở. Bà Linh và ông Trí đều không biết việc LNPV cất giữ ma túy trong nhà để sử dụng; nên cơ quan Công an không xử lý.

VHT và Lê NPT không liên quan đến hành vi phạm tội của LNPV, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không xử lý.

Bản cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 14/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo LNPV về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g Khoản 2 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo LNPV mức án từ 05 (Năm) năm đến 07 (Bảy) năm tù. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 163/19, bên ngoài có các chữ ký ghi tên LNPV, Lê MT (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc Tiền, hình dấu Công an Phường 3, Quận 8 và chữ ký giám định viên Huỳnh Thanh Thảo; 01 áo khoác màu đen, hiệu Profleet; ½ đoạn ống hút nhựa cắt xéo một đầu, một đầu dán kín.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo LNPV đã khai nhận toàn bộ hành vi cất giữ, cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an Phường 3, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng vào khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 09/12/2018, tại nhà Số 1x/1x3/37 ADL, Phường 3, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua giám định chất ma túy thu giữ của bị cáo LNPV là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,2474g (năm phẩy hai bốn bảy bốn gam), loại Methamphetamine. Do đó, đã có đủ cơ sở đế kết luận: Bị cáo LNPV đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung hình phạt: Bị cáo LNPV đã tàng trữ chất ma túy là Methamphetamine với khối lượng 5,2474 gam, nên bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam’’, đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo LNPV được quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về lỗi lầm đã gây ra; để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo LNPV về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, mức án mà Kiểm sát viên đề nghị phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo; nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy, bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính và có hoàn cảnh gia đình khó khăn, khó thi hành; nên không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 163/19, bên ngoài có các chữ ký ghi tên LNPV, Lê MT (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc Tiền, hình dấu Công an Phường 3, Quận 8 và chữ ký giám định viên Huỳnh Thanh Thảo; qua giám định, bên trong chứa chất ma túy độc hại, cấm tàng trữ, cấm lưu hành; nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 áo khoác màu đen, hiệu Profleet; là tài sản của bị cáo và dùng vào việc phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng; nên tịch thu tiêu hủy;

- ½ đoạn ống hút nhựa cắt xéo một đầu, một đầu dán kín; là dụng cụ dùng vào việc phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng; nên tịch thu tiêu hủy;

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với người phụ nữ tên Mị đã bán ma túy cho bị cáo LNPV, do không xác định được lai lịch; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không có căn cứ để xử lý là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với VHT và Lê NPT, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo LNPV; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không xử lý là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[11] Căn nhà Số 1x/1x3/37 ADL, Phường 3, Quận 8 do bà Trần Thị Linh đứng tên và bà Linh cho ông Lê MT (cha của LNPV) thuê để ở. Bà Linh, ông Trí không biết LNPV cất giữ ma túy trong nhà để sử dụng; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không xử lý là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g Khoản 2 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo LNPV 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo LNPV.

Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 163/19, bên ngoài có các chữ ký ghi tên LNPV, Lê MT (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc Tiền, hình dấu Công an Phường 3, Quận 8 và chữ ký giám định viên Huỳnh Thanh Thảo; 01 áo khoác màu đen, hiệu Profleet; ½ đoạn ống hút nhựa cắt xéo một đầu, một đầu dán kín.

(Vật chứng theo phiếu nhập kho vật chứng số 47/PNK, lập ngày 07/01/2019 của Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo LNPV phải chịu số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 86/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;