TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 86/2019/HS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 111/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Trầm Văn L (tên thường gọi là L); Sinh ngày: 26/4/1983; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 75/9 đường CXD, Phường L, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trầm Tiểu Đ (chết) và bà: Châu Chiêu P; Có vợ: Là bà Phan Kim H và con: Có 01 người con, sinh năm 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 09/5/2019.
Nhân thân: Ngày 17/02/2009, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội «Trộm cắp tài sản» (Bản án số: 14/2009/HSST). Ngày 20/8/2009, Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt của Bản án số: 14/2009/HSST theo Nghị quyết số: 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội (Quyết định số: 22/2009/QĐ-TATP). (có mặt)
- Bị hại: Bà Trần Thị Kim H; Sinh năm: 1976; Trú tại: M39/90 Cư xá PL A, Phường L, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ ngày 09/5/2019, Trầm Văn L đi bộ lòng vòng trong khu vực Cư xá Phú Lâm A tìm tài sản chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi ngang nhà số M39/90 Cư xá PL A, Phường L, Quận F của bà Trần Thị Kim H, L phát hiện nhà không đóng cửa nên lẻn vào trong nhà lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo màu hồng, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu bạc, 01 máy tính bảng hiệu Samsung màu trắng và số tiền 600.000 đồng rồi bỏ đi. Sau đó, L tiếp tục đi bộ đến khu vực chung cư Starlight, Phường 11, Quận 6 tìm tài sản thì bị ông Hồ Việt T thấy khả nghi nên điện thoại báo Công an Phường 11, Quận 6 kiểm tra bắt giữ.
Tại Công an Phường 11, Quận 6 cũng như tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Trầm Văn L đều khai nhận thực hiện hành vi nêu trên.
Bị hại và người làm chứng khai cũng tương tự.
Tại Văn bản số: 687/TCKH ngày 09 tháng 5 năm 2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6 thống nhất giá như sau:
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu hồng, số kiểu máy Vivo 1723, số Imei 1: 868490036873093, số Imei 2: 868490036873085 (mua vào tháng 12/2018), có giá là: 2.900.000 đồng.
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu bạc, số seri: R58K61833XZ, số Imei 1: 358465090826192, số Imei 2: 358466090826190 (mua vào tháng 10/2018), có giá là: 2.100.000 đồng.
+ 01 máy tính bảng màu trắng, nhãn hiệu Samsung SM-T561Y, số Imei: 359594062644371 (mua vào tháng 01/2019), có giá là: 3.500.000 đồng.
Tại Cáo trạng số: 97/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trầm Văn L về tội «Trộm cắp tài sản» theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Trầm Văn L khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi đột nhập vào nhà của bà Trần Thị Kim H tại M39/90 Cư xá PL A, Phường L, Quận F lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo màu hồng, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu bạc, 01 máy tính bảng hiệu Samsung màu trắng và số tiền 600.000 đồng vào khoảng 03 giờ ngày 09/5/2019 như nội dung bản cáo trạng nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trầm Văn L như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Phạt bị cáo Trầm Văn L từ 09 tháng đến 01 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản» theo khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.
Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Trần Thị Kim H không yêu cầu bồi thường, nên không đề nghị giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.
Lời nói sau cùng, bị cáo Trầm Văn L nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Trầm Văn L tại phiên tòa với Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Biên bản ghi nhận hình ảnh qua Camera của Công an Quận 6; lời khai của bị hại Trần Thị Kim H và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trầm Văn L với ý định phạm tội có từ trước, đã lén lút đột nhập vào nhà của bà Trần Thị Kim H tại M39/90 Cư xá PL A, Phường L, Quận F chiếm đoạt số tiền 600.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu hồng (kiểu máy Vivo 1723) trị giá 2.900.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu bạc, (số seri: R58K61833XZ) trị giá 2.100.000 đồng; 01 máy tính bảng màu trắng, nhãn hiệu Samsung SM-T561Y trị giá 3.500.000 đồng (tổng trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 9.100.000 đồng), là phạm tội «Trộm cắp tài sản». Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.
Hành vi của bị cáo Trầm Văn L không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân.
Bị cáo Trầm Văn L là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng do tham lam, lười lao động, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
[3] Bản thân bị cáo Trầm Văn L ngày 17/02/2009, bị Tòa án nhân dân Quận 6 xử phạt 09 tháng tù về tội «Trộm cắp tài sản» (Bản án số: 14/2009/HSST), nhưng do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước nên ngày 20/8/2009, Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt của Bản án số: 14/2009/HSST theo Nghị quyết số: 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội, do đó lần phạm tội này bị cáo coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội.
[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trầm Văn L tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, việc bị phát hiện và thu giữ lại tài sản là hoàn toàn ngoài ý muốn của bị cáo, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (tài sản đã được thu hồi trả bị hại); tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì bị cáo Trầm Văn L còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Xét bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Việc bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, bà Trần Thị Kim H vắng mặt, nhưng tại Cơ quan điều tra bà H không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường (theo Biên bản ghi lời khai ngày 12/5/2019 của Công an Quận 6 - BL42, 43), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[7] Việc xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho bà Trần Thị Kim H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu hồng (kiểu máy Vivo 1723, số Imei 1: 868490036873093, số Imei 2: 868490036873085); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu bạc, (số seri: R58K61833XZ, số Imei 1: 358465090826192, số Imei 2: 358466090826190); 01 máy tính bảng màu trắng, nhãn hiệu Samsung SM-T561Y (số Imei: 359594062644371); 600.000 đồng và 01 USB 16Gb hiệu Kington màu đen (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 17/6/2019 - BL93), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[8] Bị cáo Trầm Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Trầm Văn L (L) phạm tội: «Trộm cắp tài sản».
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Trầm Văn L (L) 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.
- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Trầm Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
- Bị cáo Trầm Văn L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.
Bản án 86/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 86/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về