TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 859/2020/HSPT NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 18/11/2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 803/2020/TL.HSPT ngày 27/10/2020 đối với bị cáo Cao Văn D do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 116/2020/HS-ST ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân quận TH, thành phố H.
- Bị cáo có kháng cáo: Cao Văn D, sinh ngày 11/9/1989 tại tỉnh Y; Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố số 9, thị trấn Ek, huyện K, tỉnh ĐL; Chỗ ở: Tổ 16, phường B, quận L, thành phố H (Theo xác nhận tạm trú của Công an phường B, quận L, thành phố H ngày 25/6/2020); Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Cao Văn T và bà Phạm Thị P; Vợ tên là Dương Lương H; Danh chỉ bản số 000000127, lập ngày 26/02/2020 tại Công an quận TH, thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo đầu thú ngày 22/12/2019; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.
-Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm: Luật sư Phạm Thị H – Công ty Luật TNHH PV; Có mặt.
-Trong vụ án còn có bị hại không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 21/12/2019 anh Hoàng Trung V, anh Trần Xuân H, anh Phùng Quang C ( SN 2001, trú tại: ĐK, phường S, thành phố V, tỉnh VP) và Dương Hương L (SN 1998, trú tại: Xã P, huyện KB, tỉnh ĐL) cùng nhau ăn uống tại phố Nguyễn Ngọc V, quận C, thành phố H. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, L đi xe ôm về phòng trọ tại 353, đường AD, phường P, quận TH, thành phố H để chuẩn bị sáng mai về quê. Khi về đến nơi L gặp chồng là Cao Văn D, cả hai ngồi nói chuyện. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 22/12/2019 V điều khiển xe máy Yamaha Exciter màu đỏ trắng biển kiểm soát (BKS) 88B1-230.63 cùng Trần Xuân H điều khiển xe máy HondaWave BKS 36N1-101.78 chở Phùng Quang C đến chỗ L trọ để chở L ra bến xe. Sau đó L nói với D là có bạn chở L ra bến xe để về quê, lúc này D nổi cơn ghen, D đi ra ngoài thấy V, H, C nên đã hỏi “Chúng mày là bạn của L à” C và H đáp “không”, V trả lời “vâng”. 'D đã nhặt một viên gạch lên cầm đập 1 nhát vảo đầu V, viên gạch rơi xuống đất, D tiếp tục nhặt viên gạch lên định đánh V thì được L, H, C can ngăn. Sau đó V, C, H lên xe máy đi lên đầu ngõ 353 đường AD thì dừng lại. D quay vào nhà lấy một con dao dài khoảng 32cm, bản rộng 5cm chạy ra. Thấy D cầm dao chạy đuổi theo V, C, H để lại hai chiếc xe máy tại đầu ngõ 353 đường AD, chạy bộ lên đường AD. D chạy đến chỗ H, V để xe thì không đuổi theo nữa mà dừng lại, D dùng dao chém nhiều nhát vào hai chiếc xe máy của anh V và anh H gây hư hỏng nhiều bộ phận của hai chiếc xe trên. Khi được L can ngăn D bỏ về phòng trọ của L. Sau khi sự việc xảy ra anh V đã đến Công an phường P trình báo sự việc và đề nghị Cơ quan công an giải quyết sự việc theo quy định của pháp luật.
Vật chứng thu giữ gồm:
Thu giữ của Cao Văn D: 07 mảnh nhựa màu trắng; 01 cục gạch ống nung màu đỏ kích thước 8x6x5,5cm; 01 cục gạch ống nung màu đỏ kích thước 5x4x5,5cm; 01 điện thoại di động Iphone màu hồng đã qua sử dụng; 01 CMND số 240995318 mang tên Cao Văn D.
Thu giữ của Hoàng Trung V: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ trắng BKS 88B 1-230.63, số khung (SK): 514693, số máy (SM): 537520; 01 điện thoại di động Iphone màu trắng số Imei 358758055819008; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S9 màu đen; 01 bản photo CMND số 1358255287 mang tên Hoàng Trung V; 01 bản photo Giấy phép lái xe số 260194004372 mang tên Hoàng Trung V.
Thu giữ của Dương Hương L: 01 con dao có chiều dài khoảng 32cm, chuôi dao làm bằng gỗ, có bản dao nơi rộng nhất khoảng 05 cm; 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng có số Imei 358810055263560, bọc ốp có mặt lưng hình con vật màu hồng.
Thu giữ của Trần Xuân H: 01 điện thoại di động HUAWEI màu xanh, đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave a màu đỏ BKS 36N1-101.78; 01 bản photo đăng ký xe máy BKS 36N1-101.78, SM 065757, SK 640584 mang tên Trần XV Thu giữ của Phùng Quang C: 01 điện thoại di động Iphone màu vàng đã qua sử dụng; 01 bản photo giấy phép lái xe số 260194025577 mang tên Phùng Quang Ch.
Tại kết luận Định giá tài sản số 283 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận TH kết luận: Tổng giá trị thiệt hại của mô tô BKS 88B1-230.63 là 7.070.000 đồng; Tổng giá trị thiệt hại của mô tô BKS 36N1-101.78 là 1.000.000 đồng. Tổng cộng 8.070.000đ (tám triệu không trăm bảy mươi nghìn đồng).
Tại giấy chúng nhận thương tích số 356 ngày 10/01/2020 của Bệnh viện Nam Thăng Long chứng nhận thương tích của Hoàng Trung V như sau: Vùng đỉnh đầu trái có vết thương kích thước 2x0,2x0,2cm, chảy máu; Vùng má phải có vết bầm tím; Ngón 5 bàn tay phải có vết xước kích thước 2x0,1x0,1cm đã cầm máu.
Cơ quan điều tra Công an quận TH đã trưng cầu Trung tâm pháp y thành phố H giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe cho anh Hoàng Trung V. Tuy nhiên anh V từ chối không đi giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe với lý do thương tích không lớn, không ảnh hưởng đến sức khỏe, đã được điều trị ổn định. Anh V không có yêu cầu đề nghị gì đối với thương tích của mình. Do anh V từ chối không đi giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe nên Cơ quan điều tra không có căn cứ khởi tố D tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Cơ quan điều tra Công an quận TH đã ra quyết định xử lý hành chính bằng hình thức phạt tiền, mức phạt 2.500.000 đồng đối với Cao Văn D về hành vi Xâm hại đến sức khỏe của người khác.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 88B1-230.63, SK:
514693, SM: 537520. Chủ sở hữu là anh Hoàng N (ĐC: ĐK, phường S, thành phố V, tỉnh VP là anh họ V) cho V mượn để sử dụng, anh N đã ủy quyền cho anh V giải quyết về chiếc xe trên. Ngày 11/3/2020 Cơ quan điều tra Công an quận TH đã ra quyết định xử lý vật chúng trao trả chiếc xe máy trên cho anh N, anh N đã nhận lại xe và không có đề nghị, yêu cầu bồi thường gì.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ BKS 36N1-101.78 SM 065757, SK 640584. Chủ sở hữu là ông Trần XV (ĐC: TN, xã Q, thành phố S, tỉnh TH là bố đẻ của H). Ông XV khai đã cho H toàn quyền sử dụng, định đoạt chiếc xe trên. Ngày 11/3/2020 Cơ quan điều tra Công an quận TH đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả chiếc xe trên cho anh H, anh H đã nhận lại và không có yêu cầu bồi thường dân sự, đề nghị gì.
Đối với các tài sản: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng đã qua sử dụng, 01 CMND số 240995318 mang tên Cao Văn D thu giữ của D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có số Imei 358758055819008, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S9 màu đen thu giữ của Hoàng Trung V; 01 điện thoại di động Iphone 5S màu trắng có số Imei 358810055263560 thu giữ của Dương Hương L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh đã qua sử dụng thu giữ của Trần Xuân H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng đã qua sử dụng thu giữ của Phùng Quang C là tài sản của bị cáo, bị hại, người làm chúng không liên quan đến vụ án. Ngày 11/3/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận TH đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả số tài sản trên cho Cao Văn D, Hoàng Trung V, Trần Xuân H, Phùng Quang C, Dưong Hương L.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 116/2020/HSST ngày 07/8/2020 của Toà án nhân dân quận TH, thành phố H đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Cao văn D phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 178, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Cao Văn D 07(bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về Xử lý vật chứng; Án phí hình sự sơ thẩm; Quyền kháng cáo của bị cáo và bị hại.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/8/2020, bị cáo Cao Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Bị cáo Cao Văn D không có ý kiến gì về tội danh, luật cấp sơ thẩm áp dụng; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra; Ăn năn hối cải; Nộp tài liệu gia đình có công với Cách mạng; Xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm; Đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho hưởng án treo; Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Không có ý kiến gì về tội danh luật cấp sơ thẩm xét xử; Sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú; Tại phiên tòa thành khẩn khai báo; Gia đình có công với Cách mạng nên đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và cho hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về hình thức:
Đơn kháng cáo của bị cáo nộp trong thời hạn Luật định nên được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm; Phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Do ghen tuông với anh Hoàng Trung V và anh Trần Xuân H nên ngày 22/12/2019, Cao Văn D đã về phòng trọ của mình tại 353 đường AD, quận TH, thành phố H lấy 01 con dao dài khoảng 32cm, bản rộng 5cm đi lên đầu ngõ 353 đường AD chém nhiều nhát vào xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 88B1-230.63 của anh V làm hư hỏng xe máy có giá trị thiệt hại là 7.070.000 đồng và xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 36N1-101.78 của anh H làm hư hỏng xe máy có giá trị thiệt hại là 1.000.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại của 02 xe máy là 8.070.000 đồng.
Với hành vi trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Cao Văn D về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và hưởng án treo. Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo thấy:
Nhân thân chưa có tiền án, tiền sự;
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và tính chất, mức độ hành vi phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tại phiên tòa, thành khẩn khai báo; Ăn năn hối cải; Sau khi phạm tội đã đầu thú; Gia đình có hoàn cảnh khó khăn (xác nhận của UBND thị trấn EK ngày 14/9/2020); Ông nội tên là Cao Văn T là Liệt sĩ (xác nhận của UBND thị trấn EK ngày 09/11/2020); Bị hại anh Hoàng Trung V xin giảm hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
Cân nhắc tính chất, mức độ hành vi phạm tội; Nhân thân; Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo lần đầu phạm tội; Có nơi cư trú rõ ràng; Tài sản thiệt hại đã được các bên tự thỏa thuận bồi thường cho nhau; Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; Tại phiên tòa, đã ăn năn về hành vi phạm tội; Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho được cải tạo ngoài xã hội, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Mở lượng khoan hồng của pháp luật cho bị cáo được hưởng án treo.
Từ nhận định trên, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Cao Văn D; Sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng cho bị cáo hưởng án treo.
[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
I. Căn cứ điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Cao Văn D; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 116/2020/HS-ST ngày 07/8/2020 của Toà án nhân dân quận TH, thành phố H; Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
II. Áp dụng: khoản 1 Điều 178; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Cao Văn D 07 (bẩy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Thời gian thử thách là 14 tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Cao Văn D về Ủy ban nhân dân phường B, quận L, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.
III. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án bị cáo Cao Văn D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
IV. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án là ngày 18/11/2020.
Bản án 859/2020/HSPT ngày 18/11/2020 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 859/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về