Bản án 85/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 24/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:

- Nguyễn Văn T - sinh năm 1987; nơi cư trú: tổ dân phố C D, thị trấn T T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con Nguyễn Văn H (đã chết) và bà: Đỗ Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án: ngày 28/9/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 18/9/2020; tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: ngày 31/7/2012 bị Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng, ngày 30/6/2014 bị Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy, thời hạn 24 tháng. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ 19/7/2022 đến ngày 22/7/2022 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: anh Đặng Bá H - sinh năm 1982; nơi cư trú: tổ dân phố N S, phường C S, thành phố P L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị M - sinh năm 1970; nơi cư trú: thôn B, xã T P, huyện T L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Anh Phạm Cao S - sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn 2 T, xã T H, huyện T L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3. Bà Đỗ Thị T - sinh năm 1960; nơi cư trú: tổ dân phố C D, thị trấn T T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; có mặt.

4. Ông Trịnh Ngọc H - sinh năm 1962; nơi cư trú: Xóm 6, xã L C, thành phố P L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người chứng kiến: ông Vũ Xuân T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 19/7/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Văn T lấy xe đạp của bà Đỗ Thị T (là mẹ của T) đang để ở nhà rồi một mình điều khiển đi lên khu vực cầu Đùng thuộc địa phận thôn Hạ Trung Ninh, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam để tìm mua ma túy. Khi đến khu vực cầu Đùng, T nhìn thấy có một nam thanh niên cao khoảng 1m70, dáng người gầy, đang đứng cạnh xe máy loại xe tay ga, không biết biển kiểm soát dựng bên lề đường, dáng vẻ giống người nghiện ma túy nên T điều khiển xe đến gần và hỏi “Anh có hàng không để cho em một trăm” (ý T muốn hỏi mua 100.000 đồng ma túy của người này) thì nam thanh niên này trả lời “Tiền đâu”. Hiểu ý người này có ma túy để bán nên T lấy trong túi quần trước bên phải đang mặc số tiền 100.000 đồng đưa cho nam thanh niên này, người này cầm tiền T đưa rồi đưa lại cho T 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục. T kiểm tra đúng là ma túy cần mua nên cất gói ma túy vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đạp về nhà còn nam thanh niên đi đâu T không rõ. Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe đi đến khu vực thôn Nghè, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì tổ công tác Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm tuần tra kiểm soát, phát hiện nghi vấn, tiến hành dừng xe kiểm tra và bắt quả tang.

Ngoài ra trong khoảng thời gian từ ngày 10/7/2022 đến ngày 16/7/2022, Nguyễn Văn T đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản 05 lần thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” của anh Đặng Bá H tại khu mỏ sét T T thuộc địa phận tổ dân phố Cẩm Du, thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; sau đó bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Quá trình điều tra xác định T lấy trộm tài sản của anh H nhiều lần là do những tài sản trên cồng kềnh, có trọng lượng lớn, một lần không lấy hết được số tài sản trên và do ở khu mỏ sét T T có bảo vệ trông coi, sợ lấy một lần bị phát hiện nên T thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: khoảng 05 giờ 30 phút ngày 10/7/2022, T đi bộ một mình từ nhà lên khu mỏ sét T T cách nhà T khoảng 100m để tìm xem có tài sản gì trộm cắp. Khi đến nơi, T thấy lán bảo vệ không khóa, không có ai trông coi, T nhìn vào bên trong lán thấy có 02 răng gầu máy xúc bằng kim loại nên mở cửa đi vào dùng hai tay bê từng cái răng gầu máy xúc về nhà. Sau khi mang được 2 răng gầu máy xúc về T cho mỗi cái răng gầu vào trong 01 bao tải, để 01 cái trên trước bụng xe mô tô BKS 18S4-96.. và 01 cái để sau yên xe mô tô BKS 18S4-96.. rồi một mình điều khiển xe ra cửa hàng thu mua phế liệu có địa chỉ tại thôn B, xã T P, huyện T L, tỉnh Hà Nam do bà Nguyễn Thị M làm chủ và bán được số tiền 780.000đ (bảy trăm tám mươi nghìn đồng).

Vụ thứ hai: khoảng 06 giờ ngày 11/7/2022, T đi bộ một mình từ nhà lên khu mỏ sét T T, quan sát xung quanh không có người, bên ngoài lán có 01 cuộn dây điện (loại dây của máy hàn) nên T đã lấy trộm cuộn dây điện trên mang về nhà. Sau đó, T bỏ cuộn dây điện vào 01 bao tải rồi để lên bụng xe mô tô BKS 18S4-96.. và một mình điều khiển xe chở đến cửa hàng thu mua phế liệu của bà M (có địa chỉ như trên) và bán được số tiền 660.000đ (sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Vụ thứ ba: khoảng 06 giờ ngày 14/7/2022, T tiếp tục một mình đi lên khu mỏ sét T T, thấy ở phía sau lán có 01 đoạn dây cáp và 01 quả búa tạ bằng kim loại không có cán, quan sát xung quanh không có ai nên T đã lấy trộm đoạn dây cáp và quả búa tạ trên mang về nhà. Sau đó, T cho hết các đồ vật trên vào trong 01 bao tải và đặt lên bụng xe mô tô BKS 18S4-96.. rồi một mình điều khiển xe mô tô chở đến quán thu mua phế liệu có địa chỉ tại thôn 2 T, xã T H, huyện T L, tỉnh Hà Nam do anh Phạm Cao S làm chủ và bán được số tiền 280.000đ (hai trăm tám mươi nghìn đồng).

Vụ thứ tư: khoảng 05 giờ 30 phút ngày 15/7/2022 T một mình đi bộ lên khu mỏ sét T T. Thấy lán bảo vệ khóa ngoài, không có ai trông coi, T dùng tay kéo phía dưới mép cửa lán ra thấy bên trong lán (ngay cạnh cửa) có 02 khối hình trụ tròn bằng kim loại (quả gale máy xúc) nên dùng tay kéo từng quả gale ra ngoài; sau đó, T ném 01 quả gale xuống rệ núi gần đó để không ai biết còn 01 quả gale T dùng tay không bê về nhà. Sau khi bê được 01 quả gale về nhà, T đi bộ quay lại chỗ rệ núi bê nốt quả gale còn lại mang về rồi cho cả 02 quả gale vào trong 01 bao tải đặt lên bụng xe mô tô BKS 18S4-96.. rồi một mình điều khiển xe chở xuống quán thu mua phế liệu của anh S (có địa chỉ như trên) và bán được số tiền 560.000đ (năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

Vụ thứ năm: khoảng 05 giờ 30 phút ngày 16/7/2022 T một mình đi bộ lên khu mỏ sét, quan sát thấy lán bảo vệ khóa ngoài, không có ai trong coi nên T dùng tay không cậy cửa lán thì phát hiện bên trong lán có 01 răng gầu máy xúc bằng kim loại. T dùng tay kéo răng gầu máy xúc ra ngoài rồi cho vào 01 bao tải màu xanh ở bên ngoài lán và vác lên vai mang về thì thấy có tiếng người nói “Thằng T con nhà bà T”. T bỏ bao tải xuống đất và quay lại nhìn thì thấy anh Đặng Bá H (là quản lý tại khu mỏ sét) đứng cách T khoảng 50m, T không nói gì rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Công an thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm đã triệu tập Thức đến trụ sở làm việc.

Sau khi nhận được tin báo, Công an thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm đã tiến hành kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ “Trộm cắp tài sản” ngày 10, 11, 14, 15, 16/7/2022 tại lán công trường khai thác mỏ sét Công ty xi măng T T thuộc tổ dân phố Cẩm Du, thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và khu vực giáp danh của lán. Công an thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm đã thu giữ:

- 01 xe máy Honda nhãn hiệu Wave màu xanh BKS 18S4-96..; 01 đăng ký xe số 0076590 mang tên Trịnh Ngọc H do Nguyễn Văn T tự nguyện giao nộp.

- 01 khối kim loại bên ngoài bám gỉ đen và đất có KT: phần rộng nhất 23cm, chiều dài 37,5cm, có trọng lượng 25,5kg (gọi là răng gầu máy xúc); 01 bao tải dứa có KT (67x45)cm, 2 mặt có các con chữ và số tự nhiên, bề mặt có nhiều màu sắc do anh Đặng Bá H tự nguyện giao nộp.

- 01 khối kim loại hình hộp chữ nhật KT (18x8x2,5)cm có trọng lượng 6,5kg; 01 sợi dây kim loại có chiều dài 8m, đường kính 3cm, có trọng lượng 28kg; 01 khối sắt hình trụ tròn có chiều cao 29cm, đường kính 2 đầu là 20cm và 18cm, có trọng lượng là 40kg; 01 khối sắt hình trụ tròn có chiều cao 29cm, đường kính 2 đầu là (20x19)cm, có trọng lượng là 33kg do anh Phạm Cao S tự nguyện giao nộp.

- 04 sợi kim loại màu vàng có KT: sợi 1 (5,2x0,08)m nặng 2kg; sợi 2 (4,3x0,08) m nặng 1,2kg; sợi 3 (6,9x0,08)m nặng 2,6kg; sợi 4 (2,6x0,08)m nặng 1kg; 02 khối kim loại bên ngoài bám gỉ màu đen với đất thường gọi là răng gầu máy xúc đều có KT (0,52x0,23)m nặng 47kg và 42,5kg do ông Đinh Văn H tự nguyện giao nộp. Sau đó Công an thị trấn Tân Thanh đã bàn giao lại các đồ vật, tài sản trên cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm.

* Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang: 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục (nghi là ma túy dạng Heroine) thu tại túi quần trước bên phải Nguyễn Văn T đang mặc được niêm phong trong phong bì QT01; 01 chiếc xilanh loại 03 ml/cc chưa qua sử dụng đã mất phần túi nilon bọc ngoài thu trong túi quần trước bên trái Nguyễn Văn T đang mặc; 01 chiếc xe đạp màu xanh nhãn hiệu JIAO đã qua sử dụng.

Ngày 19/7/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T tại tổ dân phố C D, thị trấn T T, huyện T L, tỉnh Hà Nam, song không thu giữ đồ vật, tài liệu, tài sản gì.

Ngày 19/7/2022 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm ra Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam giám định đối với vật chứng nghi là ma túy được niêm phong trong phong bì QT01.

Tại bản kết luận giám định số 360/KL-KTHS ngày 21/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,171 g (không phẩy một trăm bảy mươi mốt gam) loại: Heroine”.

Ngày 18/7/2022 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm ra yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm định giá tài sản đối với các tài sản Nguyễn Văn T đã trộm cắp các ngày 10,11,14,15, 16/7/2022.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS ngày 21/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm kết luận:

“- Giá trị 01 khối kim loại (là gầu của máy xúc), kích thước (0,52x0,23)m, bên ngoài bám dính rỉ sét và bụi đất, có trọng lượng 47kg là 47 x 9500 = 446.500 đồng.

- Giá trị 01 khối kim loại (là gầu của máy xúc), kích thước (0,52x0,23)m, bên ngoài bám dính rỉ sét và bụi đất, có trọng lượng 42,5kg là 42,5 x 9500 = 403.750 đồng.

- Giá trị 01 khối kim loại (là gầu của máy xúc), kích thước (37,5x23) cm, bên ngoài bám dính rỉ sét và bụi đất, có trọng lượng 25,5kg là 25,5 x 9500 = 242.250 đồng.

- Giá trị 01 khối kim loại hình trụ tròn (là quả gale của máy xúc), chiều cao 29cm, đường kính 2 đầu lần lượt là 20cm và 18cm, bên ngoài rỉ sét và bụi đất, có trọng lượng 40kg là 40 x 9500 = 380.000 đồng.

- Giá trị 01 khối kim loại hình trụ tròn (là quả gale của máy xúc), chiều cao 29cm, đường kính 2 đầu lần lượt là 20cm và 19cm, bên ngoài rỉ sét và bụi đất, có trọng lượng 33kg là 33 x 9500 = 313.500 đồng.

- Giá trị 01 khối kim loại hình hộp chữ nhật, kích thước (18x8x2,5) cm, bên ngoài bám dính rỉ sét và bụi đất, có trọng lượng 6,5kg là 6,5 x 9500 = 61.750 đồng.

- Giá 01 đoạn dây kim loại đã cũ, kích thước (8x0,03)m, có trọng lượng 28kg là 28 x 9500 = 266.000 đồng.

- Giá 01 đoạn dây kim loại màu vàng đã cũ, kích thước (5,2x0,08)m, có trọng lượng 2kg là 2 x 150.000 = 300.000 đồng.

- Giá 01 đoạn dây kim loại màu vàng đã cũ, kích thước (4,3x0,08)m, có trọng lượng 1,2kg là 1,2 x 150.000 = 180.000 đồng.

- Giá 01 đoạn dây kim loại màu vàng đã cũ, kích thước (6,9x0,08)m, có trọng lượng 2,6kg là 2,6 x 150.000 = 390.000 đồng.

- Giá 01 đoạn dây kim loại màu vàng đã cũ, kích thước (2,6x0,08)m, có trọng lượng 1kg là 1 x 150.000 = 150.000 đồng.

Tổng giá trị định giá là: 3.133.750 đồng (Ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng) Tại bản Cáo trạng số 71/CT-VKSTL ngày 12/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì. Sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất túy” và tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50, Điều 55, Điều 47 của Bộ luật Hình sự - xử Nguyễn Văn T từ 27 đến 33 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất túy”; từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp hình phạt, buộc Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 39 tháng đến 48 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy số ma túy cùng bao gói mẫu vật hoàn trả sau giám định, 01 xilanh và 01 bao tải.

- Bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt.

- Bà T có ý kiến bà là mẹ đẻ của bị cáo; việc bị cáo nghiện ma túy, bà có biết và đã khuyên bảo bị cáo từ bỏ ma túy nhưng bị cáo không nghe. Chiếc xe đạp mà bị cáo sử dụng đi mua ma túy là của bà, khi bị cáo mượn xe nói với bà là đi mua thẻ điện thoại. Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bà chiếc xe trên nay bà xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như trong nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: khoảng 10 giờ 45 phút ngày 19/7/2022, trên tuyến đường liên thôn thuộc địa phận thôn Nghè, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn T đang cất giữ trái phép 0,171g (không phẩy một trăm bảy mươi mốt gam) ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an huyện Thanh Liêm phối hợp cùng Công an xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Ngoài ra, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 10/7/2022 đến ngày 16/7/2022 tại khu vực mỏ sét T T có địa chỉ tại tổ dân phố Cẩm Du, thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản Nguyễn Văn T đã 05 lần lén lút trộm cắp tài sản của anh Đặng Bá H, cụ thể:

Vụ thứ nhất: khoảng 05 giờ 30 phút ngày 10/7/2022 T lấy trộm 02 răng gầu máy xúc bằng kim loại bên trong lán bảo vệ của khu mỏ sét, có tổng giá trị là 850.250 đồng;

Vụ thứ hai: khoảng 06 giờ ngày 11/7/2022 T lấy trộm 01 cuộn dây điện bên ngoài lán bảo vệ của khu mỏ sét, có giá trị là 1.020.000 đồng;

Vụ thứ ba: khoảng 06 giờ ngày 14/7/2022 T lấy trộm 01 đoạn dây cáp điện và 01 quả búa tạ bằng kim loại ở phía sau lán bảo vệ của khu mở sét, có tổng giá trị là 327.750 đồng;

Vụ thứ tư: khoảng 05 giờ 30 phút ngày 15/7/2022 T lấy trộm 02 quả gale máy xúc bằng kim loại bên trong lán bảo vệ của khu mỏ sét, có tổng giá trị là 693.500 đồng;

Vụ thứ năm: khoảng 05 giờ 30 phút ngày 16/7/2022 T lấy trộm 01 răng gầu máy xúc bên trong lán bảo vệ của khu mỏ sét có giá trị 242.250 đồng.

Hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn T các ngày 10, 11, 14, 15, 16/7/2022 mang tính liên tục, kế tiếp nhau, mặt khác do những tài sản trên cồng kềnh, có trọng lượng lớn, một lần không thể lấy hết được và do ở khu mỏ sét T T có bảo vệ trông coi, sợ bị phát hiện nên T thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp, do đó T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị của 05 lần trộm cắp là 3.133.750 đồng (ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine) của Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý. Hành vi 05 lần lén lút trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn T đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà quyền này được pháp luật bảo vệ gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần thiết ra bản án nghiêm khắc tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

- Bị cáo bị xét xử một lần nhưng phạm nhiều tội, do đó Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với từng tội. Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là hình phạt tù.

- Hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: đối với số ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì số 96/KL-KTHS mặt trước phong bì ghi chữ “Mẫu vật hoàn trả QT01”, là chất cấm tàng trữ, lưu hành và 01 vỏ bao thuốc lá 555, không có giá trị sử dụng; nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Toàn bộ số ma túy cùng bao gói mẫu vật hoàn trả sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 xilanh loại 03ml/cc, đã mất phần túi nilon bọc ngoài không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe đạp màu xanh, nhãn hiệu JIAO, quá trình điều tra xác định chiếc xe đạp trên là tài sản hợp pháp của bà Đỗ Thị T (là mẹ đẻ của T) đã mua tại một cửa hàng xe đạp tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (không nhớ tên, địa chỉ cụ thể) từ tháng 5/2017 với giá 400.000 đồng. Ngày 19/7/2022 T tự lấy chiếc xe đạp trên để đi mua ma túy, T không nói cho bà T biết việc T sử dụng chiếc xe đạp trên để đi mua ma túy, do đó Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe đạp trên cho bà Đỗ Thị T là có căn cứ và đúng pháp luật.

Đối với xe mô tô BKS 18S4-96.. và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Trịnh Ngọc H, quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của ông H. Quá trình điều tra, ông H xác định khoảng đầu năm 2021 ông H cho T mượn xe mô tô trên và đăng ký xe để làm phương tiện đi lại, ông H không biết việc T sử dụng xe mô tô trên để làm phương tiện chở tài sản do T trộm cắp được. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông H là có căn cứ và đúng pháp luật.

Đối với 03 răng gầu máy xúc bằng kim loại, 02 quả gale máy xúc bằng kim loại, 01 đoạn dây cáp bằng kim loại dài khoảng 8m, 01 quả búa tạ bằng kim loại, 04 đoạn dây kim loại màu vàng (lõi dây điện), quá trình điều tra xác định các đồ vật trên là tài sản hợp pháp của anh Đặng Bá H. Anh H để các tài sản trên tại lán công trường để phục vụ công việc và bị T lấy trộm từ ngày 10/7/2022 đến ngày 16/7/2022. Do đó Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản trên cho anh H là có căn cứ và đúng pháp luật.

Đối với 01 bao tải kích thước (67x45)cm là đồ vật T đã lấy ở bên ngoài lán bảo vệ tại khu vực mỏ sét T T để đựng chiếc răng gầu máy xúc ngày 16/7/2022, không có giá trị sử dụng; nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: bị hại - anh Đặng Bá H đã nhận lại toàn bộ số tài sản bị mất và không có yêu cầu, đề nghị gì; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị M và anh Phạm Cao S không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét

[7] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ và người đã bán ma túy cho Nguyễn Văn T: quá trình điều tra, T khai số ma túy T có và cất giữ trái phép là do T mua của một nam thanh niên, không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở khu vực cầu Đùng thuộc địa phận thôn Hạ Trung Ninh, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm với giá 100.000 đồng, T chỉ biết nam thanh niên này đứng cạnh xe mô tô loại xe tay ga, không biết loại xe và biển kiểm soát là gì, đang dựng xe ở ven đường tại khu vực cầu Đùng, cao khoảng 1m70, dáng người gầy, đây là lần đầu tiên T mua ma túy của người này. Ngoài lời khai của T, không còn tài liệu, chứng cứ nào khác vì vậy Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm không có căn cứ xác minh làm rõ nguồn gốc số ma túy cũng như người đã bán ma túy cho Nguyễn Văn T.

Đối với bà Nguyễn Thị M và anh Phạm Cao S: quá trình điều tra xác định, bà M và anh S là người đã mua các tài sản do Nguyễn Văn T trộm cắp được, tuy nhiên bà M và anh S đều không biết các tài sản trên là do T phạm tội mà có, T cũng không nói cho bà M và anh S biết các tài sản trên là do T trộm cắp được nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với bà M và anh S với vai trò đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản” hay hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là có căn cứ pháp luật.

[8] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 55 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106; 136; 329; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 33 (ba mươi ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 45 (bốn mươi lăm) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (19/7/2022).

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy số ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì số 360/KTHS mặt trước phong bì ghi chữ “Mẫu vật hoàn trả QT01”, 01 xilanh và 01 bao tải. (chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/10/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm).

3. Án phí: bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2022/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;