Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 85/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/5/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 63/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11/6/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm: 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã , huyện L, tỉnh Bắc Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1989 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang (Hiện đang lao động tại nước ngoài không có địa chỉ) Địa chỉ cuối cùng của anh Nguyễn Văn T tại Việt Nam: thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai ngày 8/4/2021, nguyên đơn chị Trần Thị N trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T được tự do tìm hiểu trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 25/6/2018 tại UBND xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn, đến tháng 10/2020 anh T xuất cảnh sang nước ngoài lao động, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do tính cách vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và làm ăn kinh tế hàng ngày. Hai vợ chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhưng vẫn không cải thiện được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Hiện nay vợ chồng đã ly thân nhau và không ai quan tâm tới ai nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Vân A, sinh ngày 06/4/2019. Ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T phải đóng góp phí tổn nuôi con chung.

- Về tài sản chung, công nợ: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị N còn trình bày: Hiện nay anh T vẫn ở nước ngoài, địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài chị không cung cấp được cho Tòa án được vì chị có hỏi địa chỉ của anh T nhưng anh T không cung địa chỉ ở nước ngoài cho chị, anh T vẫn liên lạc về gia đình nhưng bố đẻ anh T là ông Phạm Công T, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1968; trú tại Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang cũng không cung cấp địa chỉ nên chị không biết để cung cấp cho Tòa án.

Do tính chất công việc nên chị không thể tham gia được các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị và anh Nguyễn Văn T, nên chị đề nghị Tòa án cho chị được vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị và anh Nguyễn Văn T.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T không có bản tự khai.

Ngày 12/4/2021 và ngày 29/4/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn T là bà nguyễn Thị Q, sinh năm 1968; trú tại: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang để giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu bà Q thông báo cho anh T biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T; yêu cầu anh T viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; yêu cầu bà Q cung cấp địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua hai lần làm việc bà Q vẫn giữ nguyên quan điểm là anh T ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình nhưng bà không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài cho Tòa án, vì đây là việc cá nhân của anh T, đồng thời bà cũng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh T biết để anh T gửi lời khai về. Kể từ đó đến nay, Tòa án cũng không nhận được bất kỳ lời khai nào của anh T gửi về.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị N vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn Tấn vắng mặt không có lý do.

Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của chị N; Biên bản làm việc với bà Nguyễn Thị Q là mẹ của anh T và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Đối với nguyên đơn chị Trần Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Nguyễn Văn T không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh T; Căn cứ vào quy định của pháp luật xét xử vắng mặt anh T là đúng.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 51, 53, 56; Điều 81, 82, 83 và khoản 2 điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; khoản 3 điều 35; điểm c khoản 1 điều 37; khoản 4 điều 147; khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228; 238; điều 271; điều 273; khoản 2 điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N. Xử cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Vân A, sinh ngày 06/4/2019 cho chị Trần Thị N nuôi dưỡng, chăm sóc.

Chị Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị N là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Trần Thị N.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với mẹ đẻ của anh T là bà Nguyễn Thị Q để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu bà Q thông báo cho anh T biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị Trần Thị N với anh Nguyễn Văn T, yêu cầu bà Q cung cấp địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài. Bà Nguyễn Thị Q trình bày: Anh T vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà bà Q vẫn không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh T cho Tòa án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh T biết. Nhận thấy đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Nên căn cứ khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn T.

[2].Về thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Trần Thị N là nguyên đơn có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Văn T, anh T hiện đang lao động tại nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ (theo Công văn số 888/ANĐNg về việc cung cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 20/5/2021 của Phòng an ninh đối ngoại - Công an tỉnh Bắc Giang), thì anh Nguyễn Văn T đã xuất nhập cảnh 9 lần qua sân bay Nội Bài, lần gần nhất xuất cảnh ngày 16/10/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh trở lại, địa chỉ cuối cùng của anh T ở Việt Nam là: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Như vậy, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T kết hôn ngày 25/6/2018 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Theo chị N trình bày: Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian ngắn, đến tháng 10/2020 anh T xuất cảnh sang nước ngoài lao động, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do tính cách vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và làm ăn kinh tế hàng ngày. Hai vợ chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhưng vẫn không cải thiện được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Hiện nay vợ chồng đã ly thân nhau và không ai quan tâm tới ai nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị N với anh Nguyễn Văn T. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn chị N và anh T chung sống với nhau được một thời gian ngắn, năm 2019 anh T đi sang nước ngoài lao động thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh và đã được hai bên gia đình khuyên giải nhưng vẫn không đạt được kết quả và vợ chồng đã sống ly thân với nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa. Như vậy, tình cảm vợ chồng giữa chị N và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N. Cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

[4]. Về nuôi con chung: Chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Vân A, sinh ngày 06/4/2019. Ly hôn chị N đề nghị được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T phải đóng góp phí tổn nuôi con chung.

Xét yêu cầu nuôi con chung của chị Trần Thị N: Hội đồng xét xử thấy hiện nay anh T đang lao động tại nước ngoài không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Cháu Anh từ khi anh T đi lao động nước ngoài vẫn do chị N nuôi dưỡng cháu phát triển bình thường, ngoài ra con chung hiện nay dưới 36 tháng tuổi. Do vậy, nguyện vọng nuôi con chung của chị N là chính đáng. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị N về nuôi con chung. Giao cháu Nguyễn Thị Vân A, sinh ngày 06/4/2019 cho chị Trần Thị N là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cong chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đỏi theo quy định của pháp luật là phù hợp điều kiện thực tế. Anh Nguyễn Văn T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị Trần Thị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Trường hợp anh Nguyễn Văn T về Việt Nam có nguyện vọng nuôi con chung, anh T có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản, công nợ:Chị Trần Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí:Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 và khoản 2 Điều 123, điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Vân A, sinh ngày 06/4/2019 cho chị Trần Thị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, Anh Nguyễn Văn T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con chung do chị Trần Thị N không yêu cầu nên anh Nguyễn Văn Tấn không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N.

3. Về án phí:Chị Trần Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000010 ngày 08/4/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Trần Thị N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Trần Thị N vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Anh Nguyễn Văn T hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:85/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;