Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 85/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 893/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2021/QĐST- HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Á T, sinh năm 1997; địa chỉ: Ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn 1, T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Trần Thị Á T trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị T và anh Nguyễn Đình T kết hôn với nhau vào năm 2018 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 63 ngày 16/10/2018 tại Ủy ban nhân dân T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, chị về gia đình nhà chồng sinh sống tại thôn 1, T, huyện T, thành phố Hải Phòng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống và lối sống, vợ chồng không hợp nhau và anh T mải chơi, không quan tâm đến gia đình, quan tâm đến tình cảm, kinh tế gia đình dẫn đến căng thẳng. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình, bạn bè hòa giải nhưng không có kết quả. Cho nên từ năm 2020 chị mang con chung về nhà bố mẹ đẻ ở, sống ly thân với anh T cho đến nay, vợ chồng không ai còn quan tâm đến ai, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh T.

2. Về con chung:

Chị T trình bày chị và anh T có 01 con chung tên là Nguyễn Đình Trường An sinh ngày 31/3/2019. Khi ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung, về cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Chị T trình bày chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Đình T là bị đơn trong vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án, anh đã trình bảy quan điểm như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị T lấy nhau vào năm 2018 có đăng ký kết hôn. Sau khi lấy nhau anh chị về chung sống tại thôn 1, T cùng gia đình nhà chồng. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến giữa năm 2020 chị T mang con chung về nhà bố mẹ đẻ của chị T sinh sống, sống ly thân cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh là do bất đồng trong vấn đề nuôi dạy con chung, giữa vợ chồng cãi nhau. Nay chị T có đơn xin ly hôn tại Tòa án, anh mong muốn hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng, có hạnh phúc gia đình. Trường hợp chị T nhất quyết xin ly hôn với anh thì anh cũng chấp nhận phải ly hôn. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Đình Trường An sinh ngày 31/3/2019, khi ly hôn anh có nguyện vọng nhận nuôi con chung và không yêu cầu chị T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Anh trình bày vợ chồng không có tài sản gì, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Biên bản xác minh ngày 03/11/2020 tại Ủy ban nhân dân T, huyện T, thành phố Hải Phòng thể hiện: Chị Trần Thị Á T và anh Nguyễn Đình T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 16/10/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chuyển về sinh sống tại thôn 1, T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020, không còn chung sống cùng với nhau. Chị T và anh T có một con chung tên là Nguyễn Đình Trường An sinh ngày 31/3/2019, anh T và chị T đều có điều kiện, khả năng nuôi con đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết. Về tài sản chung của vợ chồng: Không nắm được và đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, đương sự chấp hành pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Á T và anh Nguyễn Đình T; về con chung: Giao cho chị Trần Thị Á T trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Đình Trường An sinh ngày 31/3/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Trần Thị Á T vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Á T và anh Nguyễn Đình T đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 63 ngày 16/10/2018 tại Ủy ban nhân dân T, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, từ năm 2020 mâu thuẫn trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể hàn gắn tình cảm được, do mâu thuẫn vợ chồng nên chị T và anh T sống ly thân từ đó cho đến nay và không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị T yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa chị T và anh T.

[3]. Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung tên là Nguyễn Đình Trường An sinh ngày 31/3/2019. Khi ly hôn, chị T đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung. Xét thấy, chị T đang trực tiếp nuôi con chung vẫn ổn định và được đảm bảo tốt về mọi mặt. Con chung Nguyễn Đình Trường An hiện đang dưới 36 tháng tuổi, còn rất nhỏ. Do vậy, cần giao con chung Nguyễn Đình Trường An cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết và anh T không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị T, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Chị T và anh T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Á T và anh Nguyễn Đình T.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị Á T trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Đình Trường An sinh ngày 31/3/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trần Thị Á T không yêu cầu Tòa án giải quyết và anh Nguyễn Đình T không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị Á T và anh Nguyễn Đình T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Trần Thị Á T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015589 ngày 03 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị Á T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Á T, anh Nguyễn Đình T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:85/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;