Bản án 85/2020/HS-ST ngày 23/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 85/2020/HS-ST NGÀY 23/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 23 tháng 06 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 75/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 06 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 72/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 06 năm 2020, đối với bị cáo:

Vũ Văn Q, sinh năm 1970; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện G, thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Vũ Văn T (đã chết); họ tên mẹ: Quách Thị D (đã chết); gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; họ tên vợ: Nguyễn Thị Nguyệt; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 44/2006/HSST ngày 18/5/2006 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xử phạt Vũ Văn Q 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/06/2007, đã xóa án tích; Bản án số 24/2008/HSST ngày 27/02/2008 của Tòa án nhân dân quận Long Biên xử phạt Vũ Văn Q 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/01/2009, đã xóa án tích; Bản án số 112/2009/HSST ngày 15/05/2009 Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt Vũ Văn Q 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2011, đã xóa án tích. Năm 1985 và năm 1986, Vũ Văn Q bị Công an huyện Gia Lâm xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (đã hết thời hiệu); năm 2002, Vũ Văn Q bị Công an phường Phúc Xá, quận Ba Đình xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đã hết thời hiệu).

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 14/02/2020 đến ngày 23/02/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Gia Lâm, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Kiều Thanh T, sinh năm 1985; nơi cư trú: Khu tập thể g, tổ dân phố C, thị trấn T, huyện G, thành phố H, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 14/02/2020, tại khu vực đường đê thôn Hội, Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội, tổ công tác Công an thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội phát hiện Vũ Văn Q có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý. Qua kiểm tra, phát hiện Q cất giữ 01 túi nilon màu trắng, bên trong có 02 gói giấy màu hồng và 01 gói giấy màu da cam, bên trong chứa chất bột màu trắng; Q khai nhận là Heroine để bán cho Kiều Thanh T. Tổ công tác đã phối hợp với Công an xã Cổ Bi, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vũ Văn Q.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Vũ Văn Q: 01 túi nilon màu trắng chứa 02 gói giấy màu hồng và 01 gói giấy màu da cam, bên trong mỗi gói giấy chứa chất bột màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu trắng có lắp sim liên lạc số 0978891402; số tiền 350.000 đồng và 01 xe máy Wave BKS: 29X4 – 9857.

- Thu giữ của Kiều Thanh T: 01 điện thoại Iphone màu trắng; số tiền 500.000 đồng và 01 xe máy Wave BKS: 29N1 – 700.71.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn Q theo địa chỉ Thôn T, xã C, huyện G, thành phố H, Cơ quan điều tra không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến vụ án.

Tại Kết luận giám định số 1297/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội ngày 22/02/2020 kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói màu hồng và 01 gói màu da cam là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,319g.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn Q và đối tượng Kiều Thanh T khai nhận: Khoảng 11h00 ngày 12/02/20120, Q gọi điện thoại và mua 1.000.000 đồng tiền ma tuý Heroine của người đàn ông tên Quảng ở Lâm Du, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội để Q sử dụng và có ai hỏi mua thì Q bán kiếm lợi. Sau khi mua được ma tuý, Q đã sử dụng hết một phần, phần còn lại Q cất giấu ở khu vực dốc đê thôn Hội, Cổ Bi, Gia Lâm. Đến khoảng 13h10 ngày 14/02/2020, Hải gọi điện thoại cho Q hỏi mua 500.000 đồng tiền ma tuý Heroine, Q đồng ý và hẹn Hải ở đê thôn Hội, Cổ Bi, Gia Lâm; Q đi xe máy BKS: 29X4 – 9857 đến chỗ cất giấu và lấy ma tuý để bán cho Hải, thì bị cơ quan Công an phát hiện, kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Đối với Kiều Thanh T do chưa mua được ma tuý của Q nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý Hải. Quá trình kiểm tra, xét nghiệm phát hiện Hải dương tính với ma túy nên Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Hải về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng Quảng đã bán ma túy cho Vũ Văn Q, cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm đã ra Lệnh thu giữ thư tín điện tín đối với số điện thoại 0971179595 của Quảng và xác định chủ thuê bao của số điện thoại này là chị Hoàng Thị Kim Tiến, sinh năm 1977; trú tại: Tổ 16, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội. Chị Tiến khai nhận chị đã bị mất số điện thoại 0971179595 từ lâu và hiện không còn sử dụng nữa đồng thời chị không quen biết ai tên là Quảng ở Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội. Do Vũ Văn Q không biết rõ tên tuổi, địa chỉ; Cơ quan điền tra đã tiến hành thu giữ điện tín, xác minh, nhưng không làm rõ được, không có căn cứ xử lý.

Đối với số tiền 350.000 đồng thu giữ của Vũ Văn Q, Q khai số tiền đó là tiền sinh hoạt cá nhân do lao động mà có không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc điện thoại di động Nokia màu trắng có lắp sim liên lạc thu giữ của Vũ Văn Q, liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc xe máy Wave màu đỏ BKS 29X4 – 9857, số khung 4565, số máy 4565 thu giữ của Vũ Văn Q, Q khai chiếc xe trên Q mua lại của một cửa hàng sửa chữa xe máy tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, không có giấy tờ mua bán và hiện đã làm mất giấy tờ đăng ký xe. Quá trình điều tra, xác định chủ sở hữu đứng tên đăng ký của chiếc xe máy này là anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1975; trú tại: Thôn Y, xã D, huyện G, thành phố H. Anh Nguyễn Mạnh T khai: Anh mua và đăng ký chiếc xe máy trên vào đầu năm 2007. Cuối năm 2007, anh đã bán chiếc xe trên cho một cửa hàng xe máy tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, không viết giấy tờ mua bán. Hiện nay, anh Tánh không còn sở hữu chiếc xe trên và không có yêu cầu đề nghị đối với chiếc xe trên. Theo kết quả tra cứu xe máy vật chứng của Công an huyện Gia Lâm thì chiếc xe máy nói trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone lắp sim liên lạc và số tiền 500.000 đồng thu giữ của Kiều Thanh T, liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc xe máy Wave màu trắng đen bạc BKS: 29N1 – 700.71, số khung 0785898, số máy 805731, quá trình điều tra, xác định chiếc xe máy Wave có số khung, số máy như trên có chủ sở hữu trên giấy tờ đăng ký là Kiều Thanh T; Hải khai nhận chiếc xe trên là do mẹ của Hải mua cho Hải đứng tên trên giấy tờ đăng ký xe. Do Hải có đơn xin lại chiếc xe máy trên để sử dụng sinh hoạt nên ngày 13/05/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cho Hải.

Tại bản Cáo trạng số 76/CT-VKSGL ngày 29 tháng 05 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Vũ Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Văn Q từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước chiếc xe máy Wave BKS 29X4 – 9857, số khung 4565, số máy 4565 và 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu trắng có lắp sim liên lạc thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc và số tiền 500.000 đồng thu giữ của Kiều Thanh T; hoàn trả Vũ Văn Q số tiền 350.000 đồng do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Kiều Thanh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh Hải không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Hải.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 14/02/2020, tại khu vực đê thôn Hội, Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Vũ Văn Q có hành vi cất giữ ma tuý Heroine, có khối lượng 0,319 gam để bán trái phép cho Kiều Thanh T, nhưng chưa kịp bán thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được đầy đủ về tác hại của ma tuý nhưng vẫn tham gia mua bán trái phép nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Trong các năm 1985 và năm 1986, bị cáo đã từng bị Công an huyện Gia Lâm xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; năm 2002, bị cáo bị Công an quận Ba Đình xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, các tiền sự này đều đã hết thời hiệu. Trong các năm 2006, 2008 và năm 2009, bị cáo đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, đều đã được xóa án tích. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Hoàn trả Vũ Văn Q số tiền 350.000 đồng do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Đối với chiếc xe máy Wave BKS 29X4 – 9857, số khung 4565, số máy 4565 và 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu trắng có lắp sim liên lạc thu giữ của Vũ Văn Q là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc và số tiền 500.000 đồng thu giữ của Kiều Thanh T là phương tiện, tiền bạc liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với người tên Quảng bán ma tuý cho Q, Q khai không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Kiều Thanh T do chưa mua được ma tuý của Q nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý Hải. Quá trình kiểm tra, xét nghiệm phát hiện Hải dương tính với ma túy nên Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Hải về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Văn Q 02 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2020.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,282 gam (đã trích mẫu 0,037 gam) thu giữ của bị cáo Vũ Văn Q, đựng trong 01 gói niêm phong có chữ ký của Vũ Văn Q và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 19/06/2020).

3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước chiếc xe máy Wave BKS 29X4 – 9857, số khung 4565, số máy 4565 và 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu trắng có lắp sim liên lạc thu giữ của Vũ Văn Q (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 19/06/2020).

3.3. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone màu trắng có lắp sim liên lạc và số tiền 500.000 đồng thu giữ của Kiều Thanh T (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 19/06/2020 và số tiền 500.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0001793 ngày 05/06/2020).

3.4. Hoàn trả Vũ Văn Q số tiền 350.000 đồng thu giữ của bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án (hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0001793 ngày 05/06/2020).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Vũ Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Kiều Thanh T có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2020/HS-ST ngày 23/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;