Bản án 85/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.TN, TỈNH THÁI NGUYÊN

 BẢN ÁN 85/2020/HS-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 04 tháng 5 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân TPTN, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

175/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 04 năm 2020 đối với bị cáo: Đào Văn Gi- sinh ngày 15/9/1995, tạiThái Nguyên;

Nơi đăng ký HKTT: xóm CN, xã PL, huyện ĐT, tỉnh TN; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12;dân tộc: Tày; Con ông: Đào Văn Th, sinh năm 1977 và bà: Hoàng Thị L, sinh năm 1979, gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Đinh Thị L1, sinh năm 1995, có 01 con chung sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: 01- Tại Bản án số 50/2014/HSST ngày 15/5/2014 Tòa án nhân dân thị xã PY, tỉnh VP xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 17/7/2016, nộp án phí ngày 11/7/2014.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2020 cho đến nay, hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên

*Ngưi làm chứng:

1) Ông Phạm Văn N, sinh năm 1965 (có mặt) Trú tại: xóm C, xã TTr, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên 2) Chị Đinh Thị L1, sinh năm 1995 (vắng mặt) Trú tại: xóm CN, xã PL, huyện ĐT, tỉnh TN

*Người chứng kiến:

1)Anh Vũ Xuân M, sinh năm 1987 (vắng mặt) Trú tại: SN X, tổ X, phường TT, TPTN, TN, tỉnh Thái Nguyên;

2) Anh Vũ Hồng C, sinh năm 1984 (vắng mặt) Trú tại: tổ Y, phường TT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 10/01/2020 Đào Văn Gi điều khiển xe mô tô BKS 20F9- 7627 đến phòng trọ của một người không rõ địa chỉ tên “C” ở khu vực nhà máy Glonics thuộc khu vực phường PX, TPTN chơi. Khi ngồi chơi C nhờ Gi đi lấy hộ ma túy ở khu vực nhà nghỉ HP, thuộc phường TrT, TPTN về cho C, nếu lấy được sẽ được trả 100.000 đồng. Gi đồng ý và điều khiển xe mô tô đến cổng nhà nghỉ HP, thuộc tổ A, phường TrT, TPTN để lấy ma túy, đến nơi Gi gặp một người đàn ông không quen biết, người này chỉ cho Gi ra góc tường trước cổng nhà nghỉ HP để lấy ma túy. Gi đi ra góc tường của nhà nghỉ thấy có bao thuốc lá Thăng Long, mở kiểm tra bên trong có 01 túi nylon trong có chứa ma túy nên đã cầm ở tay trái rồi quay lại chỗ xe máy định đi về chỗ C thì bị lực lượng công an phường TT phối hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TPTN đang tuần tra làm nhiệm vụ tại khu vực tổ A, phường TrT, TPTN thấy biểu hiện nghi vấn đã kiểm tra hành chính. Khi thấy tổ công tác yêu cầu kiểm tra Gi đã vứt từ tay trái ra 01 bao thuốc lá Thăng Long xuống đất cạnh vị trí Gi đứng, tổ công tác kiểm tra bên trong bao thuốc lá, phát hiện 01 gói nylon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng pha lẫn màu hồng và 01 viên nén màu hồng, Gi thừa nhận là ma túy và hồng phiến mình vừa vứt. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang,thu giữ vật chứng, niêm phong theo quy định ngoài ra còn thu giữ một xe mô biển kiểm soát 20F9-7627.Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TPTN tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng pha lẫn màu hồng có khối lượng 0,219gam, niêm phong ký hiệu G1 và viên nén hình tròn màu hồng có khối lượng 0,108 gam, niêm phong ký hiệu G2 giám định.

Tại bản kết luận giám định số 221/KL-KTHS ngày 17/01/2020của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng pha lẫn màu hồng trong phong bì ký hiệu G1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,219gam; Mẫu viên nén hình tròn màu hồng trong phong bì ký hiệu G2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,108gam.

Bản cáo trạng số 186/CT-VKSTPTN ngày 05 tháng 04 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân TPTN, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Đào Văn Gi về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Đào Văn Gi thừa nhận được người tên C nhờ đi lấy ma túy về sẽ trả công 100.000 đồng nên Gi đồng ý đi đến khu vực nhà nghỉ HP thuộc phường TrT, TPTN để lấy ma túy mang về cho Ca tại khu vực phường PX thì bị lực lượng công an khám xét thu giữ như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TPTN luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Văn Gi phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đào Văn Gi từ 30-36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu G1,G2; Tịch thu sung quỹ nhà nước xe mô tô Biển kiểm soát 20F9-7627; Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TPTN, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân TPTN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2]Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Đào Văn Gi tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số ma túy thu của Đào Văn Gi là Methamphetamine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do có mối quan hệ quen biết cùng là bạn nghiện nên bị cáo Đào Văn Gi đã nhận vận chuyển Methamphetamine từ nhà nghỉ HP thuộc tổ A, phường TrT, TPTN về phòng trọ của C tại khu vực công ty G thuộc phường PX, TPTN để Ca sử dụng với thỏa thuận tiền công là 100.000 đồng. Khi Gi đang chuyển dịch ma túy thì bị tổ công tác của Công an TPTN kiểm tra tại tổ A, phường TrT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên bắt, thu giữ vật chứng, qua cân kiểm tra số ma túy và gửi giám định xác định là Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,327 gam.

[3] Với hành vi chuyển dịch bất hợp pháp 0,327 gam Methamphetamine cho một người tên C để sử dụng mà không nhằm mục đích gì khác, hành vi của bị cáo Đào Văn Gi đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự 2015.

[4]Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, bản thân bị cáo biết được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo tiếp tay cho hành vi sử dụng ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội.

[5]Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;xét nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện, năm 2014 đã bị Tòa án nhân dân thị xã PY, tỉnh VP xét xử đến nay bản án đã được xóa án tích do đó bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự, tuy nhiên bị cáo đã bị xét xử về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy sau khi thi hành bản án bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “ phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có tài sản do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

[7.1] Đối với 02 bì niêm phong ma túy G1, G2 cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Đối với xe mô tô Biển kiểm soát 20F9-7627 mang tên Phạm Văn N, qua tra cứu xe máy vật chứng xác định không có trong cơ sở dữ liệu xe máy là vật chứng của vụ án nào. Anh N xác định đã bán xe mô tô trên vào năm 2015 việc mua bán không có giấy tờ mua bán, đến nay anh xác định không nhớ bán cho ai, bị cáo Gi xác định chiếc xe trên do bị cáo mua năm 2015, không có giấy tờ xe, mua trước khi cưới chị L1; tại phiên tòa chị Đinh Thị L1 (vợ bị cáo) vắng mặt tuy nhiên trong giai đoạn điều tra chị L1 xác định chiếc xe mô tô bị cáo sử dụng có từ trước khi chị L1 và bị cáo kết hôn do đó Hội đồng xét xử xác định anh N, chị L1 là người làm chứng đồng thời không đặt ra xem xét quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trên. Bị cáo Gi sử dụng xe mô tô BKS 20F9-7627 để vận chuyển ma túy cho C, xác định đây là công cụ phương tiện sử dụng vào việc phạm tội do đó cần tịch thu sung ngân sách nhà nước đối với mô tô trên.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9]Về nguồn gốc số ma túy Đào Văn Gi xác định do một người nam thanh niên không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực tổ A, phường TrT đưa mang về cho một người tên “C”, quá trình điều tra cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của những người trên nên chưa có căn cứ xem xét.

[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp, được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự ;

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đào Văn Gi phạm tội " Vận chuyển trái phép chất ma túy"

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 250; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Đào Văn Gi 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2020.

[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Đào Văn Gi 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

4.1 Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong ký hiệu G1,G2 bên trong chứa mẫu ma túy hoàn trả sau giám định, mặt sau có 2 dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên cùng chữ ký của người ghi họ tên Nguyễn Thành Trung 4.2Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe máy BKS 20F9-7627, số máy FMG3*10591693, số khung GLOIIY*0591693 nhãn hiệu WOLDWIDE; màu sơn: Nâu; số loại 100, dung tích 97, tình trạng xe máy đã qua sử dụng.

(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự TPTN, tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận số 264 lập ngày 20/4/2020).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đào Văn Gi phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Đào Văn Gi có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 85/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;