Bản án 85/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 85/2019/HSST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 15/10/2019, tại Trụ sở TAND huyện Khoái Châu mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 80/2019/HSST, ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với:

*/ Bị cáo: Nguyễn Văn H - Sinh năm 1967.

Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: thôn X, xã C, huyện K, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hoá: 7/12 ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Nguyễn Văn G (Đã chết) và bà Bùi Thị A, sinh năm 1933; có vợ là Trần Thị T, sinh năm 1965 và có 02 con, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1992.

Tiền án: Ngày 03/02/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên xử 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Ngày 21/9/2016 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Đánh bạc”, tổng hợp hình phạt đối với bản án ngày 03/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên buộc H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 22 tháng tù về tội “Đánh bạc” và “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/01/2018.

- Tiền sự: chưa có.

- Nhân thân:

Ngày 14/01/1993 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng xử phạt 09 tháng tù treo, thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trộm cắp trị giá 660.000 đồng);

Ngày 10/8/1993 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trộm cắp trị giá 280.500 đồng).

H bị bắt tạm giam từ ngày 19/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Khoái Châu. (Có mặt tại phiên tòa).

*/ Người bị hại: Bà Chu Thị L, sinh năm 1979;

Trú tại: thôn S, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên (Vắng mặt tại phiên tòa).

*/ Người làm chứng:

1/ Bà Trần Thị T, sinh năm 1965;

Trú tại: thôn X, xã C, huyện K, tỉnh Hưng Yên. (Vắng mặt tại phiên tòa) 2. Ông Đỗ Đình M, sinh năm 1971;

Trú tại: thôn Y, xã D, huyện K, tỉnh Hưng Yên (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 00 giờ 45 phút ngày 14/5/2019, Nguyễn Văn H đi xe lăn hai bánh (do bị cụt một chân bên phải) từ nhà đi lên đê 378 đến xã Đ, huyện K mục đích xem ai sơ hở để trộm cắp tài sản mang bán lấy tiền tiêu sài. Trên đường đi, H nhặt 02 bao tải dứa ở rìa đường (không nhớ vị trí nhặt) rồi đi đến thôn S, xã Đ thì thấy trang trại của gia đình chị Chu Thị L sinh năm 1979 ở thôn S, xã Đ, huyện K có chăn nuôi gà. Quan sát thấy cổng khóa, không có người nên H đi vòng ra phía sau nhét bao tải vào bụng rồi dùng hai tay tỳ vào bờ tường gạch cao khoảng 01m, tỳ bụng lên đưa hai chân qua để vào trang trại. Thấy trang trại có nhiều điện thắp sáng nên H đã đi đến vị trí ổ cắm rút hết ổ cắm đèn điện rồi dùng tay bắt 55 con gà loại gà Đông Tảo 20 ngày tuổi cho vào hai bao tải thắt nút lại rồi đi về theo đường cũ. Trên đường về, H mở bao tải ra kiểm tra thì thấy 42 con gà đã chết nên vứt đi (không nhớ vị trí cụ thể), 13 con gà còn lại H đem về nhà mình nuôi.

Chị L đã có đơn trình báo đến Công an xã Đ, đồng thời giao nộp 01USB có nội dung ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn H thực hiện hành vi trộm cắp gà của gia đình chị cho Cơ quan điều tra Công an huyện K niêm phong và gửi đi giám định theo quy định.

Ngày 30/5/2019 H đã tự nguyện giao nộp 13 con gà loại gà Đông Tảo 20 ngày tuổi cho Cơ quan điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46 ngày 06/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện K kết luận: Tổng giá trị của 55 con gà loại gà Đông Tảo 20 ngày tuổi tại thời điểm ngày 14/5/2019 có giá trị 2.987.000 đồng. Ngày 07/6/2019 Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Văn H chỉ dẫn hướng đi và vị trí thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Tại bản kết luận giám định số 4005/C09-P6 ngày 02/8/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: không tìm thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung tệp video mà chị L giao nộp.

Ngày 30/5/2019 Cơ quan điều tra đã trả lại 13 con gà cho chị L. Chị L đã nhận lại và không yêu cầu H bồi thường đối với số gà đã chết. Đối với 02 chiếc bao tải H dùng để đựng gà nhưng sau đó H đã vứt bỏ nhưng không nhớ vị trí cụ thể, vì vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ thu giữ.

Tại bản cáo trạng số: 88/CT-VKS-KC ngày 10 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của BLHS năm 2015.

Ti phiên toà hôm nay:

[1] Đại diện Viện kiểm nhân dân huyện Khoái Châu giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo H và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Đề nghị xử phạt bị cáo H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù tính từ ngày bắt tạm giam 19/6/2019; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H; Trách nhiệm dân sự không đặt ra, lưu tại hồ sơ vụ án 01 chiếc USB ghi lại hình ảnh H lấy trộm gà nhà chị L.

[2] Bị cáo H nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu đồng thời thành khẩn khai báo nhận tội, thái độ ăn năn hối cải, nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo ở mức án thấp nhất.

[3] Người bị hại là chị Chu Thị L và một số người làm chứng trong vụ án như bà Trần Thị T và ông Đỗ Đình M đã được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án họ đã có lời khai, quan điểm rõ ràng, việc vắng mặt họ tại phiên tòa hôm nay không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của BLTTHS năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Khoái Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: Quá trình điều tra, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật, không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận 21h, ngày 13/5/2014 bị cáo đã nẩy sinh ý định đi trộm cắp gà để bán lấy tiền tiêu sài nên bị cáo đã dùng xe lăn hai bánh đi lên đê đến xã Đ mục đích xem có ai sơ hở để trộm cắp tài sản mang bán lấy tiền tiêu sài. Lời khai nhận tội củ bị cáo H toàn phù hợp với: biên bản khám nghiệm hiện trường; sơ đồ hiện trường; biên bản dẫn giải; kết luận định giá; các biên bản về việc nhận diện qua Camera; kết luận giám định; lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai của người bị hại chị Chu Thị L và tất cả các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 14/5/2019, tại trang trại của chị Chu Thị L, sinh năm 1979 ở thôn S, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Văn H đã có hành vi trộm cắp 55 con gà, loại gà Đông Tảo 20 ngày tuổi có giá trị 2.987.000đ. Mặc dù bị cáo H bị nhược điểm về thể chất (cụt 01 chân do tai nạn năm 2014) nhưng bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đầy đủ khả năng tự bào chữa, nhận thức được hành vi lén lút để chiếm đoạt 55 con gà của chị L là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện và bị phát hiện bắt giữ. Mặc dù 55 con gà con, loại gà Đông Tảo có giá trị là 2.987.000đ. Nhưng, tại bản án số 340/2016/HSST, ngày 21/9/2016 bị cáo H đã bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai xử phạt 10 tháng tù về tội “Đánh bạc” với tình tiết tăng nặng là tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý. Tổng hợp hình phạt 01 năm tù tại bản án số 07/2016/HSST, ngày 03/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 22 tháng tù tính từ ngày bắt quả tang 23/3/2016. Nên lần phạm tội này bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến sự an toàn xã hội nói chung và gây mất trật tự trị an tại địa phương nói riêng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng tự bào chữa cho bản thân, nhận thức được việc lợi dụng lúc đêm khuya, người bị ngủ say bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của họ là vi phạm pháp luật, nhưng do có động cơ tư lợi, không muốn làm mà vẫn muốn có tiền ăn chơi, muốn hưởng thụ trên mồ hôi công sức của người khác nên bị cáo vẫn thực hiện, thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật của nhà nước. Hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc trước pháp luật.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo với thái độ ăn năn hối cải; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[6] Xét về nhân thân: Hi đồng xét xử xét thấy bị cáo H là người có nhân thân xấu, lười lao động, thích ăn chơi hưởng thụ trên mồ hôi công sức của người khác. Từ năm 1993 cho đến nay, bị cáo nhiều lần phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài trộm cắp tài sản bị cáo còn phạm tội “Đánh bạc” và cũng đã nhiều lần được giáo dục bằng pháp luật bởi các hành vi nêu trên. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để nghiêm khắc sửa đổi bản thân, lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản do lỗi cố ý, chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật, khó cải tạo. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục người khác tôn T pháp luật và cũng là đáp ứng nhu cầu phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu thì thấy rằng: Đề nghị của đại diện VKSND huyện Khoái Châu về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ nên được chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo lười lao động, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Chị L đã nhận lại 13 con gà con, loại gà Đông Tảo. Đối với 42 con gà còn lại đã bị chết, bị cáo H đã vứt đi thì chị L không yêu cầu H phải bồi thường vì xác định có giá trị không lớn. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết về trách nhiệm dân sự trong vụ án này.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc USB ghi lại hình ảnh H lấy trộm gà nhà chị L, là vật chứng của vụ án nên cần lưu tại hồ sơ vụ án.

[11] Về án phí: Buc bị cáo H phải chịu án phí HSST là 200.000đ theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của BLTTHS năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù tính từ ngày bắt tạm giam 19/6/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

u tại Hồ sơ vụ án 01 chiếc USB có chứa dữ liệu hình ảnh H thực hiện hành vi phạm tội.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của BLTTHS năm 2015.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/10/2019). Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại địa phương nơi thường trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:85/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;