TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 85/2019/HSST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 92/2019/HSST ngày 04 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2019 đối với:
Bị cáo: Tạ Thanh T - sinh năm 1983; nơi cư trú: Số 238 xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Tạ Thanh T(chết) và bà Lê Thị E có chồng tên Nguyễn Thái P (chết) và con tên Nguyễn Thái Minh T sinh năm 2000; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 16/9/2018 bị Ủy ban nhân dân xã Mỹ An, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, chấp hành xong ngày 16/12/2018, ngày 22/10/2018 bị Ủy ban nhân dân xã Mỹ An, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, chấp hành xong ngày 22/01/2019; Về nhân thân: Ngày 09/04/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng, đang chấp hành quyết định; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
1. Trần Văn C; nơi cư trú: Số 137, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
2. Trương Thiện C: nơi cư trú: xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Huỳnh Thị L; nơi cư trú: xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).
2. Phan Quốc T; nơi cư trú: xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 00 giờ ngày 08/3/2019 Tạ Thanh T điều khiển xe đạp đi tìm người bạn tên Bùi Nguyễn L nhưng không gặp, trên đường về ngang qua căn nhà số 173/11 khóm 2, phường 9, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long thấy nhà đang xây dựng không có hàng rào bảo vệ, không người trông coi nên T nảy sinh ý định đột nhập vào bên trong tìm tài sản lấy trộm bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. T dựng xe trước cửa đi vào trong nhà phát hiện thấy một cái giỏ đệm màu xanh, trong giỏ có các tài sản: 01 máy mài cầm tay hiệu Lacela màu xám đen, 02 máy khoan cầm tay hiệu Lacela, một máy khoan cầm tay không rõ nhãn hiệu, 01 máy khoan cầm tay màu xanh hiệu Bosch, 02 kéo cắt tole và 02 búa đóng đinh thuộc sở hữu của anh Trần Văn C, ngoài ra bị cáo phát hiện khu vực gần đó còn có 01 máy khoan cầm tay hiệu Bosch màu xanh, 01 máy khoan cầm tay hiệu Kenyo màu đỏ, 01 máy hàn điện tử hiệu HTC và 01 máy cắt sắt hiệu Lacela màu xám là tài sản thuộc sở hữu của anh Trần Thiện C. T lấy toàn bộ tài sản để lên xe đạp chở đi bán, T đến vựa phế liệu của chị L ở phường 3, thành phố Vĩnh Long bán số tài sản gồm: 01 máy mài cầm tay hiệu Lacela màu xám đen, 02 máy khoan cầm tay hiệu Lacela, 01 máy khoan cầm tay không rõ nhãn hiệu, 01 máy khoan cầm tay màu xanh hiệu Bosch, 01 máy khoan cầm tay hiệu Kenyo màu đỏ, 2 kéo cắt tole và 02 búa đóng đinh bán với giá 800.000 đồng, sau đó đến khoảng 10 giờ 30 tiếp tục mang 01 máy khoan cầm tay hiệu Bosch màu xanh, 01 máy hàn điện tử hiệu HTC và 01 máy cắt sắt hiệu Lacela màu xám đến vựa phế liệu của ông Ttại phường 4, thành phố Vĩnh Long bán với giá 1.100.000 đồng.
Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh C đến báo Công an phường 9, qua rà soát các đối tượng Công an mời Tạ Thanh T về trụ sở làm việc, tại đây T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cơ quan Công an tiến hành thu hồi lại được toàn bộ tài sản bán ở vựa phế liệu chị L, đối với tài sản bán ở vựa phế liệu ông T chỉ thu hồi được 01 máy khoan cầm tay hiệu Bosch màu xanh, riêng 01 máy cắt sắt để bàn và 01 máy hàn hiệu HTC (thuộc sở hữu của anh Chí) không thu hồi được do ông T đã bán lại cho một người không quen biết.
Theo kết luận định giá, toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt trị giá 8.103.700 đồng, trong đó phần tài sản không thu hồi được gồm: 01 máy cắt sắt để bàn trị giá 1.665.000 đồng và 01 máy hàn hiệu HTC trị giá 3.353.000 đồng. Bị cáo, Bị hại, Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều thống nhất kết quả định giá.
Đối với ông T, chị L khi mua tài sản không biết nguồn gốc do phạm tội mà có nên không đặt ra xử lý hình sự.
Cáo trạng số: 86/CT-VKSNDTPVL ngày 23/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long, truy tố Bị cáo tội Trộm cắp tài sản theo qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long giữ nguyên quan điểm truy tố Bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù.
Tại phiên tòa, Bị cáo khai mục đích lấy trộm số tài sản trên để bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, Bị cáo thống nhất quan điểm của Viện kiểm sát, không tranh luận gì thêm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Rất ăn năn hối hận về hành vi đã gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo sớm trở về cộng đồng làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa Bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp.
Tại phiên tòa vắng mặt bị hại Trần Văn C, Trương Thiện C; Người có quyền, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị L, Phan Quốc T tuy nhiên sự vắng mặt của những người này không gây ảnh hưởng đến việc xác định cấu thành tội phạm và quyết định hình phạt đối với Bị cáo, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản Bị cáo đủ tuổi và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra; Mặc dù nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng Bị cáo vẫn cố tình thực hiện; Bằng cách lợi dụng đêm tối, chủ sở hữu không có biện pháp bảo vệ, trông coi tài sản Bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của họ nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt bằng 8.103.700 đồng;
Hành vi của Bị cáo trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân đã được pháp luật bảo hộ.
Từ những phân tích trên, đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Tạ Thanh T thỏa mãn 04 yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc giữ gìn, quản lý tài sản. Bị cáo có sức khỏe, có khả năng lao động, là một người mẹ lẽ ra Bị cáo phải sống tử tế để làm gương cho con cái noi theo, nhưng chỉ vì một phút nông nổi mà sa đà vào con đường nghiện ngập dẫn đến cố tình chiếm đoạt tài sản của người khác để thỏa mãn cho nhu cầu bản thân. Bị cáo có nhân thân xấu nhiều tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, cần phải xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian với mức án nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục Bị cáo trở thành người tốt, cũng nhằm răng đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Tuy nhiên, xét Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với Bị cáo.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long về việc truy tố và đề nghị mức xử phạt đối với Bị cáo như trên là đúng người, đúng tội và tương xứng với hành vi Bị cáo gây ra.
[5]. Về vật chứng: Tài sản bị chiếm đoạt thu hồi được đã được Cơ quan điều tra giao trả lại cho chủ sở hữu theo đúng quy định pháp luật. Đối với chiếc xe đạp của Bị cáo là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Anh C yêu cầu Bị cáo bồi thường giá trị các tài sản không thu hồi được gồm: 01 máy cắt sắt để bàn và 01 máy hàn hiệu HTC tổng cộng bằng 5.018.000 đồng Bị cáo đồng ý. Ngoài ra không ai yêu cầu Bị cáo bồi thường thiệt hại gì khác.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Tạ Thanh T phạm tội Trộm cắp tài sản.
2. Xử phạt bị cáo Tạ Thanh T 01 (một) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày Bị cáo vào trại chấp hành án.
3. Về vật chứng: Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước chiếc xe đạp màu hồng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 8 năm 2019 giữa Công an thành phố Vĩnh Long với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long.
4. Về trách nhiệm dân sự: Buộc Bị cáo bồi thường cho anh Trần Thiện C giá trị của 01 máy cắt sắt để bàn và 01 máy hàn hiệu HTC tổng cộng bằng 5.018.000 đồng (năm triệu không trăm mười tám ngàn).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm ngàn) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
6. Bị cáo Tạ Thanh T có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 85/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 85/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về