Bản án 85/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 85/2017/HSST NGÀY 08/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 08 tháng 11 năm 2017 tại Hội trường nhà văn hóa xóm L, xã T, huyện G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2017/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2017/HSST-QĐ ngày 26 tháng 10 năm 2017, đối với bị cáo:

Trần Văn B; sinh năm 1974 tại xóm L, xã T, huyện G, tỉnh N.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; nơi cư trú: Xóm L, xã T, huyện G, tỉnh N.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Trần Văn T (đã chết) và bà: Trần Thị H; Có vợ là: Đinh Thị Png; Có 03 con: Lớn nhất sinh năm 2000; Nhỏ  nhất sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.Bị cáo bị tạm giam tính từ ngày tạm  giữ 28-6-2017 cho đến nay.

- Người làm chứng: ông Phạm Văn N; sinh năm 1956

Địa chỉ: xóm 5, , xã T, huyện G, tỉnh N. Tại phiên tòa bị cáo có mặt bị cáo B, vắng mặt ông N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng  8 giờ 30 phút ngày 28/6/2017 Trần Văn B (là đối tượng nghiện chất ma túy) đi nhờ xe máy người có tên là H từ xã T (B chỉ biết người đó nói tên là H không biết địa chỉ cụ thể ở xã L huyện G) vào dốc Hoành Nha xã  T, sau đó B xuống xe và đi xe ôm (B không biết tên tuổi địa chỉ của người xe ôm) vào nhà ông Nguyễn Đăng D mua một gói heroine với giá 300.000đ mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau đó B đi xe ôm về đến khu vực xóm 5 thì bị tổ tuần tra lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Giao Thủy kết hợp với lực lượng Công an xã T tuần tra phát hiện người điều khiển xe ôm không đội mũ bảo hiểm, phía sau chở Trần Văn B tổ công tác ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra, Trần Văn B nhảy xuống xe còn người điều khiển xe quay đầu xe bỏ chạy. Trần Văn B đã tự giác giao nộp cho tổ tuần tra 01 gói giấy nhỏ màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, Bàng khai đó là heroine vừa mua để sử dụng. Tổ tuần tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Tại phiên tòa, Trần Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm pháp của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận số 568/GĐKTHS ngày 29-6-2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy: Loại chất ma túy: Heroine, Trọng lượng mẫu M: 0,268gam .

Bản cáo trạng số 82/CT - VKS ngày 03-10-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy  truy tố bị cáo Trần Văn B  về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa: Kiểm sát viên trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn B  phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo B  từ 24 đến 30 tháng tù, tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 28-6-2017.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số heroin hoàn trả mẫu vật sau giám định

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình, trở thành người công dân tốt cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]  Lời khai của bị cáo Trần Văn B tại phiên tòa đã có hành vi cất dấu 01 gói giấy nhỏ mầu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo kết luận số 568/GĐKTHS ngày 29-6-2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy: Loại chất ma túy: Heroine, Trọng lượng mẫu: 0,268gam. Do đó bị cáo đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo đủ khả năng nhận thức được ma túy là hiểm họa gia đình và cho xã hội nhưng bị cáo vẫn dấn thân vào con đường phạm tội. Vì vậy nay cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Do đó cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự  Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập chung cải tạo một thời gian nhất định để bị cáo sau khi cải tạo khi trở về cộng đồng là công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người nào tàng trữ,... trái phép... chất ma túy thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm”.

Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:

c, Hêrôin,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản,...”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số heroin vật chứng của vụ án được hoàn trả sau giám định là hàng cấm nên áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu cho tiêu hủy.

Về nguồn gốc số heroine của B có cất giấu để dụng cho bản thân, Bàng khai mua của Nguyễn Đăng D trú tại xóm 5 xã T huyện G với giá 300.000đ. Quá trình điều tra chưa đủ căn cứ kết luận Nguyễn Đăng D bán heroine cho B nên không có căn cứ đề xử lý.

Đối với người có tên là H chở B vào dốc Hoành Nha xã T và người chở xe ôm chở B đi để mua ma túy, B không biết tên tuổi địa chỉ của hai người trên của hai người đó ở đâu. Trần Văn B cũng khai nhận hai người trên không biết B đi mua ma túy. Quá trình điều tra không xác định được hai người trên nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, xử phạt: Trần Văn B 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28-6-2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số heroin mẫu vật hoàn trả sau giám định (được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 05-10-2017 giữa Công an huyện Giao Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3.Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của  Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Văn B  phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 231 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;