TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 84/2021/HSST NGÀY 09/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2021/TLST-HS ngày 05-3-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2021/QĐ-HSST ngày 30-3-2021 đối với bị cáo:
Phạm Phúc L - sinh năm 1999 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 8, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quang V và bà Bùi Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14-9-2018 Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 02 năm (Đã chấp hành xong ngày 10-7-2020); bị tạm giữ từ ngày 14 tháng 12 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên toà).
Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Duy C - sinh năm 1966.
2. Anh Vũ Đình D - sinh năm 1978.
(Anh C và anh D vắng mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 13-12-2020, tổ công tác Công an phường V, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 58 đường Trần Phú, phường Trần Hưng Đạo, thành phố N phát hiện Phạm Phúc L điều khiển xe máy biển kiểm soát P5-0031 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L lấy từ túi quần bên trái đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng ra giao nộp, tổ công tác đã tiến hành thu giữ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (L khai đó là gói Heroine). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng đưa L và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường V, thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của L chiếc xe máy biển kiểm soát P5-0031.
Bản kết luận giám định số 1282/GĐKTHS ngày 17-12-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng, thu giữ của Phạm Phúc L được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu: 0,313 gam (Không phẩy ba một ba gam).
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Phúc L khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 13-12-2020, L điều khiển xe máy biển kiểm soát P5- 0031 đi từ nhà đến đường Phan Bội Châu, phường T, thành phố N mua của một người đàn ông (Không rõ lai lịch, địa chỉ) đang đứng ở ven đường 01gói Heroine được gói giấy bạc màu trắng với số tiền 100.000 đồng, L cầm gói Heroine vừa mua cất vào trong túi quần bên trái đang mặc, rồi điều khiển xe tìm nơi sử dụng. Khi L đi đến khu vực trước cửa số nhà 58 đường Trần Phú, phường Trần Hưng Đạo, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.
Bản cáo trạng số 86/CT-VKSTPNĐ ngày 05-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Phạm Phúc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Phạm Phúc L xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Phúc L theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Phạm Phúc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 24 tháng tù đến 27 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Phúc L có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 19 giờ 45 phút ngày 13-12- 2020, tại khu vực trước cửa số nhà 58 đường Trần Phú, phường Trần Hưng Đạo, thành phố N, Phạm Phúc L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,313 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là người có nhân thân xấu.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 1282/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Đối với đối tượng bán ma túy cho Phạm Phúc L, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng với quy định của pháp luật.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát P5-0031 không liên quan đến vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Bùi Văn Phát - sinh năm 1986; địa chỉ: Xóm 5, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định là phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Phúc L bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Tuyên bố bị cáo Phạm Phúc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Phạm Phúc L 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 14 tháng 12 năm 2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 1282/GĐKTHS (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 3 năm 2021).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Phúc L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Phúc L được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 84/2021/HSST ngày 09/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 84/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về