Bản án 84/2021/DS-ST ngày 15/06/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 84/2021/DS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thụ lý số 157/2021/TLST-DS, ngày 11 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2021/QĐXXST-DS, ngày 31 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị L; địa chỉ: XX, Ấp B, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng Bị đơn: Bà Lý Mỹ C; địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30/3/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Lê Thị L trình bày:

Vào ngày 04/8/2018 âm lịch, bà L có cho bà Lý Mỹ C vay 10 chỉ vàng 24K, lãi thỏa thuận 1.000.000 đồng/tháng, có làm giấy tay và hẹn 03 tháng phải trả, bà C đã đóng lãi được 03 tháng bằng số tiền 3.000.000 đồng; đến nay bà C chưa trả vốn gốc, cũng không đóng lãi. Nay bà Lê Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lý Mỹ C trả 10 chỉ vàng 24K.

Bị đơn bà Lý Mỹ C trình bày: Bà C thừa nhận có vay mượn của bà Lê Thị L 10 chỉ vàng 24K, có đóng lãi được 03 tháng và đến nay chưa trả vốn gốc, như phần trình bày của bà L là đúng. Nay trước yêu cầu khởi kiện của bà L đòi 10 chỉ vàng 24K thì bà C cũng đồng ý trả nhưng hiện nay chưa có khả năng thanh toán.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà L khởi kiện có cung cấp cho Tòa án giấy tay biên nhận nợ có nội dung “ngày mùng 4 tháng 8-2018 Mỹ C... có mượn của chị L... 1 cây vàng 24K” và yêu cầu bị đơn bà Lý Mỹ C có trách nhiệm trả 10 chỉ vàng 24K; khoản nợ này đã được bà C thừa nhận có vay mượn của bà L và đến nay chưa hoàn trả; các đương sự trong vụ án đều là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn trả 10 chỉ vàng 24K (vốn gốc) được Hội đồng xét xử chấp nhận; khi thực hiện việc trả vàng phải quy đổi thành tiền tương ứng với giá vàng trên thị trường (giá bán ra) tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

[2] Đối với việc quy đổi vàng bằng tiền, tại thời điểm xét xử sơ thẩm, giá vàng nữ trang được cập nhật dao động trong khoảng từ 5.000.000 đồng đến 5.300.000 đồng/chỉ vàng 24K; tại phiên tòa, các đương sự thỏa thuận lấy mức giá là 5.200.000 đồng/chỉ vàng 24K để áp dụng tính quy đổi và thực hiện. Xét thấy việc thỏa thuận này phù hợp với quy định pháp luạt nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4] Về quyền kháng cáo của đương sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 92, 147, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 280, 357, 463, 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thấm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bà Lý Mỹ C có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị L 10 (Mười) chỉ vàng 24K được quy đổi bằng tiền tại thời điểm xét xử theo đơn giá 5.200.000 đồng/chỉ vàng 24K là 52.000.000 đồng (Năm mươi hai triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 .

2. Về án phí:

2.1. Bà Lý Mỹ C phải chịu án phí 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng).

2.2. Bà Lê Thị L không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp 1.250.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009866 ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 84/2021/DS-ST ngày 15/06/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:84/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;