TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 84/2020/HSST NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn V, tên gọi khác: không có; sinh ngày 13/4/1994, tại Uông Bí, Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 2, khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B (đã chết) và bà Ngô Thị R; vợ: Trần Thị Hương L, sinh năm 1997; con: có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/4/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.
*Người chứng kiến:
1. Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1991; địa chỉ: Tổ 2, khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
2. Anh Lê Công V, sinh năm: 1994; địa chỉ: Tổ 2, khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 30 phút, ngày 22/4/2020, tại tổ 1, khu H, phường P, thành phố U, Công an phường P, thành phố U, trong khi làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang Phạm Văn V đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Vật chứng thu giữ trong lòng bàn tay phải của V 01 ví giả da màu đen, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, kích thước (1,5 x 1,5)cm, chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra Công an còn thu giữ của V 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng biển kiểm soát 14T6-57..; 01 điện thoại di động hiệu iPhone, màu vàng trắng gắn sim số 0376.781.782 và 410.000 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 385/KLGĐ ngày 27/4/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Phạm Văn V gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,185 gam.
Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa Phạm Văn V khai nhận: Khoảng 17 giờ, ngày 22/4/2020, V gọi điện cho một người đàn ông (không rõ tên tuổi địa chỉ) hỏi mua ma túy “đá” với giá 300.000 đồng để sử dụng, người này hẹn V ở đường gần nhà máy cơ khí Quang Trung. V điều khiển xe mô tô đến nơi, gặp và đưa tiền cho người này, người này đưa cho V 01 túi nilon màu trắng, kích thước (1,5x1,5)cm chứa chất tinh thể màu trắng. Xác định là ma túy cần mua V cất giấu vào ví tiền rồi đi đến khu vực Hang Hổ thuộc tổ 1, khu H, phường P, thành phố U để sử dụng. Khi vừa đến nơi thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Tại Cáo trạng số: 74/CT-VKSUB ngày 15/7/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/4/2020.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên đề nghị HĐXX không áp dụng.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 385/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn, 01 ví giả da màu đen đã cũ, 01 sim điện thoại số 0376.781.782; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại iPhone màu vàng trắng; trả lại bị cáo 410.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, với lời khai của những người chứng kiến, với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường P, thành phố U lập hồi 17 giờ 40 phút ngày 22/4/2020, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 30 phút, ngày 22/4/2020, tại tổ 1, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Văn V là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,185 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Về hình phạt:
[3.1] Hình phạt chính:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến gia đình và cộng động dân cư, nên cần phải xử lý nghiêm.
* Tình tiết tăng nặng: Không có *Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ, sim điện thoại số 0376.781.782 là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội, 01 ví giả da đã cũ không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại hiệu iPhone màu vàng trắng là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước; số tiền 410.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền của bị cáo không liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn V, là tài sản của V; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen trắng, BKS 14T6-57.. là tài sản của chị Phạm Thị N (chị gái V), các tài sản trên không liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu, nên không đề cập.
[5] Những tình tiết khác trong vụ án: Đối với người đàn ông bán ma túy cho V, không có lai lịch, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để xử lý.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố
Bị cáo Phạm Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạ t: Phạm Văn V 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/4/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 385/KLGĐ còn nguyên vẹn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, 01 sim điện thoại số 0376.781.782 và 01 ví giả da màu đen đã cũ; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu iPhone màu vàng trắng; trả lại bị cáo 410.000 đồng.
(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).
3. Về án phí Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phạm Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp ngân sách Nhà nước.
4. Về quyề n kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 84/2020/HSST ngày 21/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 84/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về