TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 84/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON GIỮA BÀ N VÀ ÔNG L
Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:398/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 59/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự Nguyên đơn: Bà Lê Thị N. Sinh năm 1986. Địa chỉ: 170/10 đường P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Bị đơn: Ông Trịnh Viết Lộc; sinh năm 1977. Địa chỉ: 170/10 đường P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện nộp tại Tòa án thành phố Đà Lạt và quá trình tố tụng nguyên đơn bà Lê Thị Nhung trình bày: Bà và ông Trịnh Viết L, đăng ký kết hôn năm 2004 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố Đà, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại 170/10 đường P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, nhà của cha mẹ chồng. Cuộc sống hạnh phúc được 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông L không lo làm ăn thường xuyên nhậu nhẹt về gây gổ, xúc phạm và đánh bà, đập phá đồ đạt trong nhà, bà đã cố gắng nhịn và tha thứ nhiều lần nhưng ông L không thay đổi. Đến hiện nay bà không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân với ông L. Hiện bà và ông L đã ly thân được hơn 2 năm. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Về con chung: Hai vợ chồng có 3 con chung tên Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2004; Trịnh Thế T, sinh ngày 13/3/2007 và Trịnh Thế H, sinh ngày 15/3/2018. Khi ly hôn bà yêu cầu nuôi 3 con và yêu cầu ông Lộc trợ cấp nuôi con 5.000.000đ/ 3 cháu/ tháng cho đến khi con thành niên.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Trịnh Viết L được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không có ý kiến bằng văn bản gời Tòa án về yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị N và không có mặt theo yêu cầu của Tòa án.
Tại phiên tòa, bà Lê Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, yêu cầu nuôi con, và thay đổi một phần yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt phát biểu ý kiến về sự tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như của Hội đồng xét xử tại phiên tòa và của những người tham gia tố tụng.
Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị Nhung, cho ly hôn giữa bà Lê Thị N. Về con chung giao 3 con chung tên Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2004; TrịnhThế T, sinh ngày 13/3/2007; Trịnh Thế H sinh ngày 15/3/2018 cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên. Buộc ông Trịnh Viết L cấp dưỡng nuôi 3 con chung tên Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2004; TrịnhThế T, sinh ngày 13/3/2007; Trịnh Thế H sinh ngày 15/3/2018 mỗi con mỗi tháng 1.500.000đ, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 12/2020 cho đến khi con thành niên. Về tài sản chung cũng như nợ chung không có tranh chấp nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định;
[1] Về quan hệ tranh chấp: Bà Lê Thị N có đơn yêu cầu xin ly hôn với ông Trịnh Viết Lộc; và yêu cầu nuôi con, ông Trịnh Viết L không đến tòa để trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà Nhung nên xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên là “Tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con” theo qui đinh tại khoản 1 điều 28 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Ông Trịnh Viết Lộc; cư trú, sinh sống tại địa chỉ: 170/10 đường P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; Căn cứ điểm a, khỏan 1 Điều 35, điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng.
[2] Về tố tụng: Ông Trịnh Viết L được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt, căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà Lê Thị N và ông Trịnh Viết L, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng vào năm 2004 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Nvà ông Lộc là tuân thủ đúng trình tự quy định của pháp luật. Theo bà N cuộc sống hạnh phúc được 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông Lộc không lo làm ăn thường xuyên nhậu nhẹt về gây gổ, xúc phạm và đánh vợ, đập phá đồ đạc trong nhà. Hiện nay vợ chồng sống ly thân, tình cảm không còn nên bà Lê Thị N yêu cầu ly hôn. Về phía ông Trịnh Viết L Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tòa trình bày ý kiến về yêu cầu của bà Lê Thị N là thể hiện thái độ không còn mong muốn hằn gắn tình cảm vợ chồng với bà Lê Thị N. Với thực trạng của quan hệ hôn nhân thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng đối với nhau không còn, có kéo dài thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Nên yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị N là có căn cứ. Áp dụng Điều 56 luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị N, cho ly hôn giữa bà bà Lê Thị N và ông Trịnh Viết L.
[4] Giữa ông Trịnh Viết L và bà Lê Thị N có 3 con chung tên Trịnh Thế P sinh ngày 19/7/2004, Trịnh Thế T sinh ngày 13/3/2007, Trịnh Thế H sinh ngày 15/3/2018. Xét thấy cháu P và T đủ 7 tuổi Tòa án lấy lời khai các cháu có nguyện vọng ở với mẹ, riêng cháu Hòa còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ, nên chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị N, giao các con cho bà Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên là phù hợp với qui định của pháp luật.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Lê Thị N yêu cầu ông Trịnh Viết L cấp dưỡng nuôi con, mỗi con 1.500.000/tháng cho đến khi con thành niên. Xét thấy việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của cha mẹ, mức cấp dưỡng bà Lê Thị N yêu cầu ông Trịnh Viết L cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với chi phí thực tế để cùng nuôi con, nên chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị N, buộc ông Trịnh Viết L cấp dưỡng nuôi các con tên Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2004; Trịnh Thế T, sinh ngày 13/3/2007; Trịnh Thế H, sinh ngày 15/3/2018 mỗi con mỗi tháng 1.500.000đ, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 12/2020 cho đến khi các con thành niên là phù hợp.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị N không có tranh chấp nên không đề cập.
[7] Về án phí: Lê Thị Nphải chịu án phí ly hôn theo qui định của pháp luật. Ông Trịnh Viết L phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo qui đinh của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1- Cho ly hôn giữa bà Lê Thị N và ông Trịnh Viết L.
2- Về quyền nuôi con chung: Giao 3 con chung tên Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2004; Trịnh Thế T, sinh ngày 13/3/2007; Trịnh Thế H, sinh ngày 15/3/2018 cho bà Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ tuổi thành niên.
3- Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc ông Trịnh Viết L cấp dưỡng nuôi 3 con chung tên Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2004; Trịnh Thế T, sinh ngày13/3/2007; Trịnh Thế H, sinh ngày 15/3/2018, mỗi con mỗi tháng 1.500.000đ, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 12/2020 cho đến khi các con đủ tuổi thành niên.
Quyền thăm nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
4- Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày bà N có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền cấp dưỡng nuôi con cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng ông L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015
3- Về án phí: Bà Lê Thị N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm (Được trừ vào số tiền tạm nộp án phí bà Lê Thị N đã nộp theo biên lai thu số : AAA/2016/00017678 ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ), bà N đã nộp đủ. Ông Trịnh Viết Lphải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con sơ thẩm.
4- Bà Lê Thị N, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Trịnh Viết L vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. /.
Bản án 84/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con giữa bà N và ông L
Số hiệu: | 84/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về