TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 84/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 24 tháng 12 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện LG xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 384/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 126/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11/12/2020 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Anh Dương Văn T, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn Thị, xã M, huyện LG, tỉnh BG.
*Bị đơn: Chị Thân Thị P, sinh năm 1987 (Tên gọi khác: Thân Thị S) Địa chỉ: Thôn BC, xã Đ, huyện LG, tỉnh BG (Anh T, chị P có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ghi ngày 20/5/2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn anh Dương Văn T trình bày: Anh và chị Thân Thị P kết hôn ngày 14/3/2006 tại UBND xã M, trước khi kết hôn anh chị có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn chị P về nhà anh làm dâu luôn. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Nhưng từ năm 2019, vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh nghi ngờ chị P có tình cảm với người khác. Anh đã khuyên giải chị P nhưng chị P không nghe mà bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn BC, xã Đ, huyện LG, tỉnh BG sinh sống, vợ chồng ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay anh xác định không còn tình cảm với chị P, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị P.
Về con chung: Quá trình chung sống, giữa anh và chị P có 02 con chung là cháu Dương T N, sinh ngày 13/3/2008 và cháu Dương Đức G, sinh ngày 21/01/2013. Hiện nay cả 02 con chung đang ở cùng anh, khi ly hôn anh đề nghị Tòa án giao cả 02 con chung cho anh nuôi dưỡng, anh không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn chị Thân Thị P (tên gọi khác Thân Thị S) tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo trình bày: Ngoài tên gọi Thân Thị P thì chị còn có tên gọi khác là Thân Thị S, khi làm việc với Tòa án chị xuất trình CMND mang tên Thân Thị S. Chị xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn giữa hai vợ chồng chị như anh T khai là đúng. Từ năm 2018, 2019 vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên cờ bạc, nợ nần, anh T nghi ngờ chị có quan hệ bất chính với người đàn ông khác nên vợ chồng xảy ra xích mích và cãi vã nhau. Hai vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, quan điểm làm ăn kinh tế, nhiều lần chị khuyên anh bỏ cờ bạc nhưng anh T vẫn chứng nào tật nấy. Từ ngày 01/8/2019 chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, nay anh T khởi kiện xin ly hôn thì chị đồng ý ly hôn anh T.
Về con chung: Chị xác nhận vợ chồng có 02 con chung như anh T đã trình bày. Hiện cả 02 con chung đang ở cùng anh T. Khi ly hôn chị không đồng ý để anh T nuôi dưỡng cả 02 con chung, chị đề nghị Tòa án giao cho anh T nuôi dưỡng cháu Dương T N và giao cho chị nuôi dưỡng cháu Dương Đức G. Về cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại đơn trình bày nguyện vọng ngày 05/11/2020 của cháu Dương T N và cháu Dương Đức G thể hiện các cháu đều có nguyện vọng được ở cùng bố khi bố mẹ ly hôn, có chữ ký người giám hộ là anh Dương Văn T và chị Thân Thị P.
* Ngày 26/11/2020, Tòa án có công văn số 345/2020/TA về việc đề nghị Công an tỉnh BG để xác minh, làm rõ người được cấp số CMND số 121557021 ngày 22/6/2002 mang tên Thân Thị P sinh ngày 15/7/1987 và người được cấp CMND số 121557021 ngày 28/5/2019 mang tên Thân Thị S sinh ngày 09/8/1987, đều có nguyên quán: Đ, LG, BG có phải cùng một người hay không.
* Ngày 30/11/2020, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh BG đã phúc đáp công văn số 345/2020/TA của Tòa án. Tại nội dung công văn phúc đáp số 747/PC06 của Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh BG thể hiện: chị Thân Thị P đã thực hiện điều chỉnh tên gọi và ngày tháng sinh trên CMND được cấp từ Thân Thị P sinh ngày 15/7/1987 sang tên gọi Thân Thị S, sinh ngày 09/8/1987 do đó xác định ngoài tên gọi Thân Thị P thì chị P còn có tên gọi khác là Thân Thị S.
* Theo biên bản xác minh của Tòa án với đại diện chính quyền địa phương xác nhận trong quá trình chung sống tại địa phương, vợ chồng anh T và chị P có đăng ký kết hôn hợp pháp. Tuy nhiên, địa phương không nắm được mâu thuẫn của vợ chồng anh T, chị P. Địa phương chỉ biết khoảng hơn 1 năm nay chị P đã về nhà bố mẹ đẻ ở xã Đ, huyện LG sinh sống, thi thoảng chị P về thăm con cái. Giữa anh T và chị P có 02 con chung là Dương T N sinh năm 2008 và Dương Đức G, sinh năm 2013. Hiện nay cháu N và cháu G đang ở cùng anh T và ông bà nội. Hàng ngày, anh T vắng nhà thì ông bà nội là người đưa đón, chăm sóc 02 cháu. Quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại phiên tòa:
- Anh T trình bày: Anh vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn chị Thân Thị P và đề nghị Tòa án giao cả 02 con chung cho anh nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh không đồng ý để chị P nuôi con với lý do chị P đi làm công ty thì thời gian đi làm từ sáng đến tối mới về, không có thời gian để đưa đón, chăm sóc cho các con, công việc của anh là làm chủ xưởng sản xuất bánh nên có thời gian và điều kiện để chăm sóc các con hơn. Anh không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con.
- Chị Thân Thị P (tên gọi khác Thân Thị S) trình bày: Chị đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của anh T. Tuy nhiên, về con chung chị đề nghị Tòa án giao cho chị nuôi dưỡng cháu Dương Đức G giao cho anh T nuôi dưỡng cháu Dương T N, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Anh T cho rằng chị đi làm công ty từ sáng đến tối mới về không có thời gian để đưa đón, chăm sóc các con, không đủ điều kiện để nuôi con là không đúng. Chị đi làm từ 07 giờ đến 17 giờ 30 phút nhưng chị đang ở cùng bố mẹ, bố mẹ chị đồng ý giúp chị đưa đón các cháu đi học nên chị có đủ điều kiện để nuôi con.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LG phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án:
Xét anh T, chị P đều thống nhất thuận tình ly hôn nên đề nghị áp dụng Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, công nhận sự thuận tình ly hôn của hai bên.
Về con chung đề nghị áp dụng Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình giao cho anh T nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Dương T N, sinh ngày 13/3/2008 và giao cho chị P nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Dương Đức G, sinh ngày 21/01/2013.
Ngoài ra kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét về án phí, quyền kháng cáo của đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét (HĐXX) thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn khởi kiện của anh Dương Văn T cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình cụ thể là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện LG.
Tòa án nhân dân huyện LG đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đều có mặt.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Dương Văn T và chị Thân Thị P (tên gọi khác Thân Thị S) đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện LG ngày 14/3/2006, nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.
Về quá trình chung sống của vợ chồng thì thấy: Anh T, chị P đều xác định sau khi kết hôn vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2018, 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn anh T khai do bất đồng quan điểm sống, anh nghi ngờ chị P có quan hệ bất chính với người khác, anh đã nhiều lần khuyên giải nhưng chị P không nghe mà bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, còn chị P khai do anh T thường xuyên cờ bạc, nợ nần, anh T nghi ngờ chị có quan hệ bất chính với người đàn ông khác nên vợ chồng xảy ra xích mích và cãi cã nhau. Hai vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, quan điểm làm ăn kinh tế, nhiều lần chị khuyên anh bỏ cờ bạc nhưng anh T vẫn chứng nào tật nấy, từ tháng 8/2019 chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn BC, xã Đ, huyện LG sinh sống, hiện nay vợ chồng sống ly thân. Tòa án đã tiến hành hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nhưng anh T và chị P đều thống nhất yêu cầu giải quyết ly hôn, do đó Tòa án căn cứ Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn của anh Dương Văn T và chị Thân Thị P.
[3] Về con chung: Anh T, chị P xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Dương T N, sinh ngày 13/3/2008 và cháu Dương Đức G, sinh ngày 21/01/2013. Khi ly hôn anh T có nguyện vọng được nuôi cả 2 con chung, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con. Chị P không đồng ý, chị đề nghị Tòa án giao cho anh T nuôi dưỡng cháu N, giao cho chị nuôi dưỡng cháu G. Các cháu đều có nguyện vọng được ở cùng anh T. Xem xét về điều kiện nuôi con của anh T, chị P, HĐXX xét thấy: anh T hiện đang làm chủ cơ sở sản xuất bánh nướng, bánh dẻo, thu nhập bình quân từ 12.000.000đ đến 15.000.000đ/tháng, anh hiện đang ở cùng nhà với bố mẹ đẻ. Chị P hiện đang làm công nhân may có thu nhập bình quân khoảng 5.000.000 đồng/tháng, hiện chị đang ở cùng nhà với bố mẹ đẻ, như vậy cả anh T và chị P đều có thu nhập, ở chung cùng bố mẹ, có bố mẹ hỗ trợ chăm con. Mặc dù cả cháu N và cháu G đều có nguyện vọng ở với bố nhưng việc giao cho một mình anh T nuôi cả hai con sẽ không đảm bảo, mặt khác để cho chị P có điều kiện gần gũi, trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, cũng như để đảm bảo quyền, nghĩa vụ và nhu cầu chính đáng của cha mẹ đối với con chưa T niên nên HĐXX quyết định giao con chung là Dương T N cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Dương Đức G cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con, chị P cũng không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không buộc T, chị P phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, anh T, chị P đều có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
[4] Về tài sản chung, công nợ chung: Anh T, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Anh T phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 51, Điều 55, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 235; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Dương Văn T và chị Thân Thị P (tên gọi khác: Thân Thị S).
2. Về con chung: Giao cho anh Dương Văn T quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Dương T N, sinh ngày 13/3/2008 và giao cho chị Thân Thị P (tên gọi khác: Thân Thị S) quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Dương Đức G, sinh ngày 21/01/2013.
Sau khi ly hôn, anh T, chị P đều có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T, chị P không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Án phí:
- Anh Dương Văn T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0002639 ngày 04/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LG. Xác nhận anh T đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Anh T, chị P có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 84/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 84/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về