Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 84/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 506/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/10/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Ngọc TH, sinh năm 1959.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1974.

Cùng địa chỉ thường trú: tổ 4, ấp 1, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(Ông TH, bà C đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Trần Ngọc TH trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2005 đến nay, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn, do không hiểu biết pháp luật. Ông bà sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, đến tháng 3 năm 2019 bà C có quan hệ bất chính với người đàn ông khác và đã thừa nhận với ông. Hiện nay ông bà vẫn sống chung với nhau. Nay ông thấy hai người không còn quan tâm, thương yêu nhau nữa và không thể sống chung được nữa, ông yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà C.

Về con chung: Ông và bà C có 01 con chung là Trần Ngọc D, sinh ngày 19/4/2006, ông có đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu D nên ông yêu cầu được nuôi dưỡng cháu D, không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Ông đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt ông cho đến khi vụ án kết thúc và có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông TH tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2005, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn.

Bà và ông TH sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau nên thường xuyên cãi nhau, do bà có quen người đàn ông khác nhưng hiện nay đã chấm dứt. Hiện nay ông bà vẫn còn sống chung nhà, bà vẫn còn quan tâm đến ông TH nhưng ông TH còn quan tâm đến bà nữa hay không thì bà không biết. Nay ông TH xin ly hôn thì bà đồng ý.

Về con chung: Bà và ông TH có 01 con chung tên là Trần Ngọc D, sinh ngày 19/4/2006. Cháu D hiện đang có cuộc sống tốt và phát triển bình thường. Ông TH yêu cầu được nuôi dưỡng cháu D, tạm thời không yêu cầu bà cấp dưỡng nuôi con thì bà đồng ý.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà cho đến khi vụ án kết thúc và có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra bà không trình bày gì thêm.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long TH:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm nghị án được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án, tư cách tố tụng, thời hạn chuẩn bị xét xử, việc ban hành văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý đến thời điểm hiện nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa ông TH và bà C được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, ông bà chung sống với nhau từ năm 2005 nhưng không có đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, căn cứ theo quy định tại điểm b, khoản 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội xác định quan hệ hôn nhân của ông bà là không hợp pháp nên không công nhận quan hệ vợ chồng. Đề nghị tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông TH và bà C.

Về con chung: Ông bà có 01 người con chung là cháu Trần Ngọc D, sinh ngày 19/04/2006. Theo thỏa thuận của ông bà giao cháu D cho ông TH trực tiếp nuôi dưỡng, bà C tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con. Đây cũng là nguyện vọng của cháu D. Căn cứ Điều 69, 70, 71, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị giao cháu D cho ông TH nuôi dưỡng, tạm thời bà C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông bà trình bày không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông TH, bà C đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt ông TH, bà C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Ngọc TH và bà Nguyễn Thị C tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2005 nhưng không thực hiện nghĩa vụ đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, là đã vi phạm quy định tại Điều 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Trong quá trình chung sống, ông TH và bà C sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau, bà C có quan hệ bất chính với người đàn ông khác. Nay ông TH xác định không còn quan tâm, thương yêu nhau nữa. Ông TH yêu cầu được ly hôn với bà C, bà C cũng đồng ý. Căn cứ Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị quyết số 35/2000/NQ - QH10 ngày 09/6/2000, khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên bố không công nhận ông TH và bà C là vợ chồng.

[3] Về con chung: Ông TH và bà C có 01 con chung tên là Trần Ngọc D, sinh ngày 19/4/2006. Ông TH yêu cầu được nuôi dưỡng cháu D, không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con, bà C đồng ý. Cháu D cũng có nguyện vọng được sống với ông TH nên giao cháu D cho ông TH nuôi dưỡng, tạm thời bà C không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Ông TH và bà C khai không có nên không đặt ra xem xét. [5] Về nợ chung: Ông TH và bà C khai không có và theo kết quả xác minh tại địa phương thì trong thời kỳ ông bà sống chung với nhau như vợ chồng, không có ai tranh chấp với ông bà về nghĩa vụ tài sản nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Ông TH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình.

[7] Đối với ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000, khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53, các Điều 81, 82, 83, 84, khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Ngọc TH về việc “Tranh chấp ly hôn” đối với bà Nguyễn Thị C. Tuyên bố không công nhận ông Trần Ngọc TH và bà Nguyễn Thị C là vợ chồng.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Trần Ngọc D, sinh ngày 19/4/2006. Giao cháu D cho ông TH nuôi dưỡng, tạm thời bà C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà C được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con theo quy đinh của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Ông TH phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0005243 ngày 10/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Đồng Nai. Ông TH đã nộp xong án phí.

Ông TH, bà C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:84/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;